Nguyễn Ngọc Chu: Nghịch lý ở Vinh: Hiếu học mà không đủ trường để học
1. KỶ LỤC KHÔNG MONG ĐỢI
Trường Trung học Phổ thông (THPT) Huỳnh Thúc Kháng – Trường Quốc học Vinh thành lập ngày 01/9/1920, là trường danh tiếng thuộc bậc nhất của Bắc Trung Bộ trong nửa đầu và giữa thế kỷ 20, là nơi đào tạo ra nhiều hiền tài cho Thanh – Nghệ – Tĩnh.
Trường THPT thứ hai ra đời ở Vinh là Trường vừa học vừa làm Nghệ An, nay là trường THPT Hà Huy Tập, được thành lập ngày 22/12/1975, 55 năm sau trường Trường Quốc học Vinh.
Trường THPT thứ ba ở Vinh là Trường Cấp 3 Vinh 2 thành lập năm 1976, năm 1977 mới đi vào hoạt động, năm 1979 đổi tên là Trường Cấp 3 Vinh 3, nay là Trường THPT Lê Viết Thuật.
Như vậy từ năm 1976 đến nay là 48 năm, thành phố Vinh không có thêm một trường THPT công lập nào! Dân số thành phố Vinh hiện thời khoảng 400 000 ngàn người, nhiều gấp ít nhất 4 lần so với năm 1976. Vinh có 6 trường THPT dân lập nữa. Nhưng 48 năm không mở thêm trường THPT công lập nào, thì chắc chắn Vinh lập kỷ lục quốc gia, đứng vị trí số 1 trong các thành phố về chậm phát triển trường THPT công lập. Đây là kỷ lục buồn cho Vinh. Không chỉ là kỷ lục buồn, mà đang mang đến cho người dân Vinh một “thảm hoạ giáo dục”:
Năm học 2024-2025, toàn thành phố Vinh có khoảng 6000 học sinh tốt nghiệp THCS, sẽ phải bước vào cuộc quyết đấu “mất còn” để tranh 2600 chỗ học tại 3 trường THPT công lập nêu trên.
Tỷ lệ quyết đấu 2,3 chọn 1, tương đương với tỷ lệ thất bại là 57% là một áp lực vô cùng lớn cho các cháu học sinh. Càng không tốt khi rơi vào tuổi vị thành niên. Tuổi vị thành niên là thời gian cần tránh những áp lực tâm lý. Bởi đó là quãng thời gian định hình phát triển mà một tác động nhỏ về tâm lý cũng có thể gây ra sự đổi hướng phát triển, trong trường hợp không may là về hướng tiêu cực. Đối với các em học sinh Trung học Cơ sở (THCS) thành Vinh, thi vào THPT còn áp lực hơn nhiều so với thi tốt nghiệp THPT, hơn cả vào đại học và tốt nghiệp đại học. Nhưng áp lực không chỉ học sinh mà áp lực cho cả phụ huynh, cho toàn bộ gia đình và cho toàn bộ thành phố.
Tại sao lại có một kỳ thi áp lực đến quái gở như vậy giữa chặng đường phổ cập giáo dục 12 năm? Lại ở vào tuổi vị thành niên 15 -16? Phải xoá bỏ càng nhanh càng tốt kỳ thi từ THCS lên THPT.
2. HAI MỤC TIÊU QUAN TRỌNG CỦA GIÁO DỤC VIỆT NAM
a/ Phổ cập giáo dục hết THPT
Sau cách mạng tháng Tám, xoá nạn mù chữ là một trong ba mục tiêu then chốt “diệt giặc đói” ‘ diệt giặc dốt”, “diệt giặc ngoại xâm” của nước ta. Sau đó giáo dục bắt buộc ở nước ta là đến THCS.
Nhưng hai thập niên gân đây, loài người đã đạt được những tiến bộ vượt trội về công nghệ và khoa học kỹ thuật ngoài sự tưởng tượng và thời đại đã ở giai đoạn mà kiến thức của giáo dục mức THPT trở thành sơ đẳng. Yêu cầu giáo dục THCS đã không còn phù hợp. Phải phổ cập giáo dục THPT. Tốt nghiệp THPT ở thời đại ngày nay thì cũng chỉ như xoá nạn mù chữ năm 1945.
Với việc phân ban từ THPT và đúng đắn hơn, quyết liệt hơn và phải sớm hơn là chọn môn học theo yêu cầu ngay từ THCS, thì vấn đề trường chuyên và học nghề đã được giải quyết.
b/ Miễn phí giáo dục phổ thông
Giáo dục phổ thông hết THPT phải được miễn phí.
Cụ Hồ đã từng có ham muốn tột bậc là “ai cũng được học hành”. Nhiều nước tư bản chủ nghĩa mà trước đây từng bị phê phán là “bóc lột” “xấu xa” thì đã miễn phí giáo dục phổ thông. Nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội tốt đẹp nhưng lại không chịu miễn phí giáo dục phổ thông, nên ham muốn tột bậc của cụ Hồ “ai cũng được học hành” vẫn còn chưa đạt được.
Có phổ cập giáo dục THPT hay không, Giáo dục phổ thông hết THPT có được được miễn phí hay không phần lớn phụ thuộc vào vai trò người đứng đầu là Bộ trưởng Bộ Giáo Dục & Đào Tạo. Hãy nhìn lại quá khứ, vào những năm khó khăn nhất, để thấy các Bộ trưởng Tạ Quang Bửu, Nguyễn Văn Huyên đã đề xuất bỏ thi, miễn phí giáo dục như thế nào mà học tập.
Phổ cập giáo dục THPT và miễn phí giáo dục phổ thông là những vấn đề lớn đòi hỏi thời gian để giải quyết, nhưng làm cho kỳ thi từ THCS lên THPT không còn mảy may áp lực lại “dễ như trở bàn tay”. Chỉ là ông Bộ trưởng Bộ GD&ĐT có quan tâm đúng mức hay không mà thôi.
3. TỶ LỆ DÂN LẬP VÀ CÔNG LẬP
Vào đầu những năm thập niên 90 của thế kỷ trước, khi mở cửa cho giáo dục, các trường dân lập ồ ạt ra đời.
Việc thành phố Vinh chỉ có 3 trường THPT công lập, không xây thêm, có lẽ một phần nguyên do là “dồn lợi thế cho các vùng khó khăn phát triển trường công lập, còn Vinh có điều kiện hơn, nên để cho trường dân lập tự phát triển, gánh vác bớt một phần trách nhiệm”. Không biết suy nghĩ này có đúng với tư tưởng của lãnh đạo nghành giáo dục Nghệ An trong quá khứ hay không? Nhưng dầu sao thì cũng nên dành một suy nghĩ tích cực, hơn là “vạch lá tìm sâu” vì sự đã rồi.
Cũng chính vì sự ra đời của các trường dân lập, không chỉ ở bậc phổ thông, mà nhiều hơn là ở bậc đại học, dẫn đến một quy tắc bất thành văn, là “nhường” học sinh cho các trường dân lập. Tỷ lệ xoay quanh con số 3-7. Nghĩa là các trường công lập chỉ lấy khoảng 70% học sinh có nhu cầu, để lại 30% cho các trường ngoài công lập.
Ngược với các nước tư bản phát triển, khi trường ngoài công lập có dịch vụ và đào tạo tốt với học phí cao, nên thu hút nhóm có năng lực nhất trong số các học sinh muốn nhập học, thì ở nước ta, các trường dân lập có cơ sở vật chất yếu, đội ngũ giáo viên ít, đành phải thoả mãn với phân khúc cuối của dòng chảy khách hàng.
Từ năm 1976 đến thời điểm hiện tại Vinh chỉ có 3 trường THPT công lập. Nhưng ở Vinh còn có 6 trường dân lập, 2 trường Dân tộc nội trú, và 2 trường chuyên. Cho nên, nhiều người (bao gồm không ít lãnh đạo) cho rằng ngoài 2600 học sinh THCS vào 3 trường THPT công lập, thì 3400 học sinh còn lại sẽ học tập ở 6 trường dân lập. Thế là vẫn “đủ chỗ”, chứ không “thất học”.
Nhưng yêu cầu của học sinh và phụ huynh rất khác vớ khái niệm đủ chỗ học vừa nêu. Vấn đè không phải cộng tất cả các chỗ của tất cả các trường THPT trên toàn tỉnh, rồi chỉ ra là không thiếu chỗ. Mà phải hiểu răng, trong giai đoạn hiện nay, thì tuyệt đại đa số phụ huynh muốn cho con vào học trường công lập. Không chỉ là học phí thấp hơn, mà quan trọng là danh thế. Công thức bất thành văn 3-7 (hay tương tự) giữa dân lập và công lập không phù hợp với thực tiễn.
Dân lập là các trường phải trả học phí cao. Nhóm này liên quan đến tài chính của người giàu có. Và có thể dự báo được trong khoảng 3-5%. Nghĩa là, trường dân lập dẫu có chất lượng tốt thì cũng không thu hút quá 5% số lượng học sinh.
Nhóm thứ 2 là nhóm không thích học, hay chưa thể hiện năng khiếu, hay thích đi vào nghề sớm. Nhóm này cũng chỉ khoảng từ 5%-10%.
Như vậỵ, tổng cả 2 nhóm là nhỏ hơn15%. Điều này có nghĩa là:
Trường công lập phải đáp ứng 100 % nhu cầu của học sinh muốn nhập học. Trong trường hợp xấu nhất thì cũng có ít nhất là 85% học sinh theo học ở các trường công lập. Chỉ không quá 15 % dành cho trường dân lập, chuyên, và dạy nghề.
Nếu theo công thức này, thì tối thiểu có 5 100 (85%) học sinh THCS của Vinh sẽ theo học ở các trường THPT công lập. Chỉ 900 học sinh (15%) theo học trường dân lập, chuyên và dạy nghề. Nhưng 3 trường THPT công lập nêu trên của thành phố Vinh đáp ứng chưa được 3000 học sinh. Còn hơn 3000 học sinh không có chỗ học trong trường THPT công lập.
Khác với các nước TBCN phát triển, nền công nghiệp Việt Nam ở mức sơ khai, nên xu hướng học nghề chưa phát triển vì cơ hội việc làm nhỏ. Đó là lý do mô hình trường vừa học vừa làm ở nước ta chưa thành công. Đó cũng là nguyên nhân, khiến chưa nhiều em muốn “chuyên nghiệp” ngay sau THCS.
Với xu hướng miễn phí giáo dục phổ thông và phổ cập giáo dục THPT trên toàn quốc, thì gần như 100% học sinh sẽ theo học tại các trường công lập. Ở bậc phổ thông, vai trò trường dân lập sẽ bị thu hẹp lại. Vai trò của các trường dân lập chỉ có thể có được vị trí khá hơn ở giáo dục đại học, nhưng là ở thì tương lai.
Đưa ra các con số này, để đi đến kết luận rằng, giải quyết bài toán “thất học” sau THCS ở TP Vinh là phải có các trường THPT công đáp ứng 100% nhu cầu của học sinh, bất kể thành phố có bao nhiêu trường dân lập hay trường chuyên, trường học nghề.
4. GIẢI PHÁP
Nếu 3 600 học sinh THCS Vinh không vào được 3 trường THPT công, và không chịu theo học các trường dân lập, thì sẽ trở thành “mù chữ”.
“Mù chữ” ở đây hiểu theo nghĩa tương đối, ở vị thế so sánh, chứ không phải là không biết đọc, biết viết. Khi yêu cầu tối thiểu của xã hội là A mà chỉ đạt B với B<A thì có nghĩa là không đạt chuẩn. Với tiến bộ công nghệ ở thời đại những năm 2020-2030, thì giáo dục đến bậc THCS là chưa “sạch nước cản”. Vậy nên, với các học sinh học hết THCS, muốn học lên bậc THPT mà không được học, thì cũng không khác gì “thất học” hay “mù chữ”. Đặt vấn đề như vậy để thấy tính cấp thiết của yêu cầu có chỗ cho tất cả học sinh muốn theo học hết bậc THPT.
Tất cả những điều nêu trên dẫn đến câu hỏi làm thế nào để 6000 học sinh THCS Vinh được học hết bậc THPT ở các trường công?
Giải pháp là XÂY DỰNG THÊM CÁC TRƯỜNG CÔNG LẬP MỚI.
Không có đất để xây dựng trường ư? Không phải. Đất cho dự án, cho chung cư – vẫn bát ngát mênh mông.
Không có kinh phí ư? Không phải. Hàng chục ngàn tỷ đồng đang chảy vào những lỗ đen vô nghĩa.
Không có giáo viên ư? Không phải. Hàng ngàn giáo viên đang chưa có việc làm. Hàng ngàn giáo viên mới nghỉ hưu sẵn sàng quay trở lại để giảng dạy. Đất nước có chiến tranh, người ta còn bắt lính ngĩa vụ đến tuổi 70.
Cái không có chính là sự quan tâm chưa đúng mức! Là sự coi nhẹ giáo dục mà đề cao thứ khác. Cái thiếu nữa là tầm nhìn và năng lực.
Đường 500 kv Bắc – Nam chỉ làm trong 2 năm. Xây mới thêm 3 trường THPT công lập ở thành phố Vinh cho 12 000 học sinh cũng chỉ không quá 1 năm. Đây là bài toán không chỉ của Bí thư, Chủ tịch TP Vinh và Giám đốc Sở GD&ĐT Nghệ An. Đây còn là là trách nhiệm của lãnh đạo cao nhất của tỉnh Nghệ An.
Tiềm năng lớn nhất của Nghệ An là con người. Khi đất học mà thất học thì chẳng những có lỗi với tổ tiên, con cháu bị thua thiệt, chậm đường phát triển, mà đến thần linh cũng nổi giận quở trách.
5. TRÁCH NHIỆM CỦA BỘ GD&ĐT
Chúng ta đã phí phạm trí tuệ khi ra cho học trò những vấn đề vô cùng khó mà vô nghĩa, vì buộc học trò nát óc suy nghĩ, nhưng khi đến kết quả thì là điều đã biết trước nhiều năm. Giá mà cũng cái nát óc đó dành cho điều chưa ai biết, sẽ trở thành phát minh, sáng chế có lợi cho nhân loại.
Chúng ta vần tiếp tục sai lầm khi bắt học sinh dồn sức để tham gia cuộc thi sinh tử, một mất một còn, từ THCS vào THPT, với thể thức nốc ao 2 lấy 1, 3 lấy 1, 4 lấy 1… Đó là những cuộc thi làm hao mòn trí tuệ, tinh thần và sức lực cho một mục đích vô nghĩa. Vì tốt nghiệp THPT là điều phổ cập giáo dục.
Cuộc đời con người phải đi qua các cuộc thi, các cuộc quyết đấu. Nhưng khác nhau ở chỗ, có người biết dành sức lực trí tuệ cho các cuộc quyết đấu quan trọng, cuộc quyết đấu cuối cùng. Là người thầy, dựng lên các cuộc thi chuyển cấp khắc nghiệt mà vô nghĩa, là có tội với học trò.
Tốt nghiệp THCS, tốt nghiệp THPT không phải là trận quyết đấu, càng không phải là trận quyết đấu một mất một còn. Hãy mở rộng cửa trường cho những ai muốn học. Tiếp thu nhiều, tiếp thu ít là tuỳ từng học viên, theo năng lực, và quan trọng hơn là theo suy nghĩ của học viên. Có người tưởng tiếp thu ít, thế mà thành công. Có người tưởng tiếp thu nhiều, thế mà thất bại.
Tài năng của con người phát triển không ngừng theo thời gian, suốt cả cuộc đời. Có người bộc lộ sớm. Có người thể hiện muộn. Có người gặp cơ hội. Có người không gặp thời. Lấy thước đo nhất thời phiến diện để loại bỏ sự nghiệp một đời của một số phận là bất công.
Hàng chục triệu số phận nhiều thế hệ nối tiếp nhau phụ thuộc vào sự sáng suốt của Bộ GD&ĐT, nhất là Ông Bộ trưởng. Hãy xoá bỏ những kỳ thi vô nghĩa, trong đó có kỳ thi từ THCS lên THPT, để “ai cũng được học hành”. Hãy tạo ra môi trường giáo dục khai phóng, để mỗi cá nhân được tự do toả sáng.