Nguyễn Văn: ‘Tôi Phải Sống’: tiếng lòng vượt thời gian
Bìa bản tiếng Anh, tiếng Việt của cuốn “Tôi phải sống”
Thật là một may mắn cho tôi khi đọc được cuốn bút kí ‘Tôi Phải Sống’ của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ. Cuốn sách là một đóng góp có ý nghĩa cho dịp kỷ niệm 50 năm Thuyền Nhân Việt Nam 2025.
Để đặt nội dung cuốn hồi ức trong bối cảnh và để dễ theo dõi bài đọc sách này, thiết tưởng vài dòng về tác giả là rất cần thiết. Tác giả Nguyễn Hữu Lễ là một linh mục Công giáo. Ông sinh ngày 9/12/1943 tại xã Hiếu Phụng, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long, trong một gia đình 5 con (và ông là con út). Sau khi xong tú tài, ông quyết định theo học tại Đại Chủng Viện Sài Gòn. Năm 1970, ông được thụ phong linh mục. Sau đó, ông phục vụ tại các họ đạo Sa Đéc, Long Toàn, nhà thờ Chánh Tòa Vĩnh Long và chánh xứ họ đạo La Mã, Bến Tre.
Sau biến cố 30/4/1975 là một thời gian rất khó khăn cho ông. Đầu năm 1976 Linh mục Nguyễn Hữu Lễ bị bắt vì tội chống chế độ mới. Ông bị đi tù cải tạo suốt 13 năm trời. Trong thời gian đó, có 11 năm ông bị giam giữ tại các trại tù khét tiếng ở miền Bắc như Thanh Cẩm và Cổng Trời. Ông từng cố gắng vượt trại tù nhưng bị bắt lại và chịu một trận tra tấn súyt chết.
Cuối năm 1988 ông được trả tự do. Một thời gian ngắn sau đó, ông vượt biên qua Thái Lan và từng ở trong trại tị nạn Phanat Nikhom. Năm 1990, Linh mục Denis Browne, Giám mục Giáo Phận Auckland, mời ông sang Tân Tây Lan để phụ trách Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại giáo phận Auckland.
Cuốn bút ký ‘Tôi Phải Sống’ được xuất bản lần đầu vào năm 1993 và được in 3 lần sau đó. Bản tôi đọc được in vào năm 2013.
Cuốn sách là một nguồn tư liệu quý giá để hiểu rõ hơn về cuộc sống ở miền Nam Việt Nam trước 1975. Những chương đầu của cuốn hồi ức đưa chúng ta trở về một miền quê thanh bình ở Bến Tre, nơi tác giả được sinh ra và lớn lên bên cạnh con sông hiền hoà và đồng ruộng trù phú. Những kỷ niệm tuổi thơ hồn nhiên (như bắt cá, bắt chuột đồng) được khắc họa một cách tinh tế, tạo nên một không gian đối lập với những ngày tháng chiến tranh ác liệt sau đó.
Những ai đã từng lớn lên ở miền Tây Nam Bộ sẽ gặp lại những hình ảnh quen thuộc được mô tả trong sách. Nhiều người trẻ ngày nay có lẽ không biết đến cái bắc (sau 1975 gọi là ‘phà’) vốn là một phương tiện giao thông quan trọng giữa hai bên bờ của những con sông lớn. Thời trước 1975, mỗi lần qua bắc là mỗi một trải nghiệm khó quên cái không gian nhộn nhịp và đa màu sắc. Có thể đọc đoạn Linh mục Nguyễn Hữu Lễ mô tả cảnh tượng trên Bắc Mỹ Thuận như sau:
“Lúc đó trên bắc rất ồn ào. Đa số hành khách là những người đàn bà tay xách nách mang những túi gói căng phồng và nặng trĩu. Chung quanh tôi người ta cười nói huyên thuyên. Tiếng những người rao bán hàng rong nghe lanh lảnh, tiếng những người ăn xin ca hát có đệm nhạc inh ỏi cùng với tiếng máy của chiếc bắc đang chạy. Tất cả các loại âm thanh đó quyện vào nhau làm thành một bản hợp tấu ồn ào lấn át tiếng hát trong máy khuếch âm của người hành khất mù và em bé gái đang tiến dần tới chỗ tôi ngồi.“
Sau một thời gian thanh bình, không khí chiến tranh và chết chóc đã lan tràn về miền Tây. Những cuộc khủng bố do phe cộng sản gây ra được tác giả mô tả khá sống động. Người đọc ở tuổi 60 chắc chắn sẽ tìm lại những ký ức về sự khủng bố lan tràn khắp miền Tây như giật sập cầu, đấp mô trên đường lộ, pháo kích vào trường học, v.v. Người đọc sinh ra sau 1975 có lẽ không biết những cuộc khủng bố như trên đã gây ra biết bao cái chết vô tội. Tác giả thuật lại một chiếc cầu ở miệt quê bị giật sập như sau:
“Tiếng nổ này là kết quả của bao nhiêu tính toán quỷ quyệt của những cái đầu tuy nhỏ bé nhưng vô cùng tinh ranh.”
Thảm thương nhất là những xác người trôi sông:
“Tôi cũng nghe biết rất sớm hai tiếng ‘Việt Minh’ và tôi cũng sợ họ không kém gì sợ Tây trắng Tây đen. Lúc đó, tôi chưa đủ trí khôn nên không biết gì về tình hình đất nước, chỉ biết là đang có chiến tranh, có tiếng súng, có người chết.
Tôi đã quen thuộc với xác người chết ngay từ lúc tôi vừa có trí khôn. Tôi thấy nhiều xác chết trôi sông nhưng không biết họ là ai, và ai đã giết chết họ. Bọn trẻ chúng tôi thường gọi nhau chạy xuống bến sông phía sau nhà thờ để coi những xác chết trôi qua mà chúng tôi gọi là ‘thằng chổng.’ […] Thỉnh thoảng lại có những xác chết trôi không đầu. Nhiều lần tôi thấy những xác bị trói hai tay về phía sau. Có xác mặc áo, có xác cởi trần. Đủ hình, đủ kiểu và đủ dạng xác chết trôi.”
Gia đình của tác giả cũng giống như một nước Việt Nam thu nhỏ. Có người trong gia đình theo cộng sản, nhưng cũng có nhiều người hơn bên phe Quốc gia. Nhưng bi thảm nhất là anh em giết nhau chỉ vì ở hai chiến tuyến.
Tác giả thuật lại câu chuyện đau nhói về gia đình của người bà con mà ông gọi là ông Cậu Tám (em của bà nội ông). Ông Tám có người con trai thứ sáu là lính của VNCH, còn người con rể thì bí mật theo cộng sản. Trong một lần truy quét cộng sản, người con trai thứ sáu đã vô tình bắn chết đối phương, mà khi tới gần thì nhận ra là chồng của người chị thứ Tư (tức người anh rể). Trong đám tang, người con thứ Tư khóc thét lên và nói “Anh Tư ơi! Không ngờ chính em đã giết anh! Tha thứ cho em, anh Tư ơi! Tha thứ cho em, chị Tư ơi!”
Những cái chết vẫn còn tiếp tục sau 1975. Đó là thời điểm tương đối căng thẳng, những người du kích do kém trình độ văn hoá, thiếu nhận thức, nhưng thừa lòng căm thù nên họ sẵn sàng bắn giết bất cứ ai họ nghi ngờ là ‘thù địch’. Có những người du kích và bộ độ (từ Bắc vào) không biết cái bồn cầu tiêu là gì, xem cái quạt trần là ‘máy chém’, và ‘sửa honda’ là một loại … sữa bò!
Đó là một giai đoạn không có luật pháp đúng nghĩa, chỉ có luật của họng súng và lòng căm thù dâng trào. Trong một chương, tác giả thuật lại cách mà một du kích quân đã hạ sát một hành khách đi xe đò như sau:
“Cảnh lục soát này đã quá quen thuộc, nên tôi không mấy chú ý. Nhưng bất thình lình, không biết gặp thứ gì, anh du kích vội lùi bước lại, tay lên cò súng kêu lách cách, miệng quát to: ‘Nằm xuống, nằm xuống!’ Vừa la hét, vừa nhảy lùi lại mấy bước. Cây AK trong tay anh ta đang ở thế chiến đấu và mũi súng đen ngòm đang chĩa về người đàn ông đang vội vàng nằm sấp xuống mặt đường theo. ‘Đưa hai tay về phía trước!’ Anh du kích lại hét lên ra lệnh, và người đàn ông luống cuống làm theo, trong khi anh du kích xê dịch vị trí cho họng súng ra phía cánh đồng nơi không có người. Sau khi họng súng đã hướng chính xác về phía nạn nhân, thì ‘Bằng! Bằng! Bằng! Bằng!’ Một tràng súng nổ vang khiến những người đang đứng trên lộ vội nằm suống theo phản xạ. Thân hình người đàn ông đáng thương bị giật nẩy lên theo từng tiếng súng nổ, máu văng tung toé. Cơ thể anh co giật thật dữ dội một lúc rồi nằm yên bất động. Cảnh tượng đó xảy ra quá gần, nên từ trong xe tôi còn ngửi được mùi thuốc súng! Tôi nhắm mắt quay mặt đi và âm thầm đọc một câu kinh cho nạn nhân.“
Mười ba năm trong lao tù cải tạo
Năm 1976 tác giả bị bắt vì tội chống chế độ. Ông tự nhận mình là một người chống chủ nghĩa cộng sản và chế độ cộng sản. Mãi đến năm 1988 thì ông mới được trả tự do. Cuốn hồi ức dành một số chương thuật lại trải nghiệm của ông trong thời gian 13 năm lao tù này.
Ông và nhiều tù nhân cùng cảnh ngộ được chở từ Nam ra Bắc trong tàu Sông Hương. Khi tới Hải Phòng, ông thuật lại rằng khi ra khỏi tàu và lên xe đi về hướng Hà Nam, nhà cầm quyền đã đạo diễn một màn ném đá. Nhiều người dân và cả trẻ em đứng hai bên đường ném đá vào đám tù nhân, làm cho một số bị thương. Họ la hét lên:
“ĐM chúng mày, lũ nguỵ, lũ uống máu ăn gan người!”
Các cán bộ quản giáo đi trong xe nói: “Các anh thấy chưa? Nếu đảng không đưa các anh vào đây để bảo vệ các anh thì nhân dân đã giết chết các anh!” Tác giả nhận xét đó là một màn trình diễn khá thô kệch và trẻ con, nhưng cũng nói lên cái tính hèn mọn, thâm độc và man rợ của những kẻ chủ trương.
Một trong những trải nghiệm đau đớn nhất trong khi bị cầm tù là bị chính tù nhân chính trị hãm hại các tù nhân chính trị khác. Một trong những sự kiện gây chấn động trong cuốn hồi ức liên quan đếm một người tù nhân tên là Bùi Đình Thi, cựu đại uý trong Quân lực VNCH, người đã tra tấn đến chết một tù nhân khác là cựu thiếu tá không quân và dân biểu Đặng Văn Tiếp. Sự kiện xảy ra có sự chứng kiến của tác giả.
Ông Bùi Đình Thi bị bắt đi tù cải tạo, và vì nguyên do nào đó, đã trở thành nhân viên ‘Trật tự’. Trong vai trò này, ông Bùi Đình Thi trở thành một công cụ đắc lực cho quan quản giáo trại tị nạn và trở thành một hung thần trong trại Thanh Cẩm. Sau cuộc vượt trại tù không thành công, ông Đặng Văn Tiếp, tác giả và hai người tù khác bị bắt trở lại. Trong cuốn hồi ức, Linh mục Nguyễn Hữu Lễ thuật lại cách mà Bùi Đình Thi đánh tù nhân đến chết như sau:
“… vừa quăng tôi vô buồng, Bùi Đình Thi vội chạy ra đẩy anh Đặng Văn Tiếp vào sân. Từ lúc thấy anh Tiếp bị đánh ở bờ sông cho đến lúc đó là bao lâu, tôi cũng không thể đoán được và anh Tiếp bị đòn nhiều ít thế nào tôi cũng chẳng hay. Tôi chỉ biết lúc này trông anh còn khá hơn tôi, vì còn đi đứng được.
[…] Lúc đó tôi không biết ai đã quật anh Tiếp ngã xuống, nhưng tôi thấy rõ Bùi Đình Thi, và chỉ một mình Bùi Đình Thi mà thôi, nhảy chồm tới vồ lấy anh Tiếp. Hắn dùng 2 tay túm lấy một tay anh Tiếp kéo lên và dùng gót chân dậm một cách điên cuồng lên ngực, lên bụng anh Tiếp giữa tiếng chửi bới cổ vũ hò hét điên cuồng của đám cán bộ Việt Cộng đứng vây quanh.
Nằm nhìn cảnh ấy, tôi biết là anh Tiếp không thể nào chịu nổi cú đòn hiểm độc này của Bùi Đình Thi. Một lúc sau, tôi nghe anh Tiếp kêu lên thật to: ‘Chắc con chết mất mẹ ơi!’ Tôi không ngờ đó là câu hỏi cuối cùng của đời anh. Anh Đặng Văn Tiếp đã chết ngay sau tiếng kêu đó.
Không ai có thể ngờ rằng cuộc đời đã từng ngang dọc oai hùng của Đặng Văn Tiếp đã bị chấm dứt một cách đau thương, tức tưởi như thế này vào một buổi chiều sáng âm u ngày 2/5/1979 trong nhà tù Thanh Cảm, lúc anh vừa 46 tuổi.“
Tác giả đi đến một nhận định cay đắng: “Hành động phản bội và làm tay sai cho kẻ thù của một số tù chánh trị miền Nam để lập công và hãm hại anh em là điều làm tôi cảm thấy nhục nhã và đau đớn nhất trong 13 năm tôi sống trong tù cộng sản.”
Sau này, ông Bùi Đình Thi được qua Mỹ định cư theo Chương trình HO. Khi qua đến Mỹ, nhiều cựu tù nhân nhận ra ông và đã nói về những đòn tra tấn tàn bạo của ông trong trại tù Thanh Cẩm. Nhưng có lẽ qua cuốn hồi ký ‘Tôi Phải Sống’ và nhân chứng, ông Bùi Đình Thi bị chính phủ Mỹ đưa ra toà. Ông bị toà phạt đày đi một đảo xa và sau này qua đời ở đó.
Tôi Phải Sống của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ không chỉ là một cuốn hồi ký, mà còn là một bằng chứng lịch sử sống động về một giai đoạn đầy biến động của đất nước. Tác giả đã đưa người đọc vào một hành trình đầy cảm xúc, từ những kỷ niệm tuổi thơ êm đềm đến những tháng ngày lao tù khổ sai trong các trại cải tạo. Qua ngòi bút chân thực của tác giả, người đọc như được sống lại những năm tháng lịch sử mà giới trẻ sau này không hề biết đến.
Linh mục Nguyễn Hữu Lễ viết một cách đơn giản, nhưng không kém phần sâu sắc. Đó là văn chương miền Nam chân phương. Ông có khả năng mô tả sinh động những cảnh vật, con người và sự kiện, khiến người đọc như đang được sống lại những khoảnh khắc đó. Ngôn ngữ của ông vừa mang tính tự sự, vừa mang tính phân tích, tạo nên một sức cuốn hút đặc biệt. Viết về những biến động ở miền Nam sau 1975, ông viết về chủ trương nhà cầm quyền cộng sản cấm mặc áo dài như sau:
“[…] họ đã vội áp đặt lên đầu cổ người dân miền Nam một cách thô bạo qua việc cướp đi luôn … chiếc áo dài của người phụ nữ Việt Nam! Tội nghiệp cho chiếc áo dài thướt tha là nét duyên dáng truyền thống của dân tộc.”
“Bất cứ thứ gì thuộc về chế độ cũ cũng sai, cũng trái, chỉ có ‘chế độ mới’ là đúng, là đẹp. Nhưng người ta quên đi rằng chế độ mới nào rồi cũng sẽ trở thành chế độ cũ trong tiến trình hướng về tương lai của dân tộc.”
Tác giả không chỉ mô tả những đau khổ, tủi nhục mà còn cả những niềm hy vọng, tình yêu thương của con người trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Qua đó, độc giả có thể cảm nhận được sức mạnh của tinh thần con người, của ý chí sống.
Việt Nam ngày nay dĩ nhiên không phải là Việt Nam của thập niên 1970 hay 1980. Kinh tế có phẩn phát triển và đời sống của người dân được cải thiện và cuộc sống tiện nghi hơn. Chính vì cuộc sống có phần cải thiện mà nhiều người, rất nhiều người đã quên quá khứ đau khổ. Người ta cũng quên một thực tế: Việt Nam vẫn là một nước cộng sản. Quyền tự do của người dân bị hạn chế, và những tiếng nói phản kháng bị đàn áp. Có thể nói rằng cái tội lớn nhất của chế độ cộng sản Việt Nam là nó đã huỷ diệt dân khí của dân tộc, làm tê liệt tinh thần phản kháng của dân tộc, và xoá bỏ lịch sử dân tộc.
Đa số những người lớn lên sau 1975 không biết những sự kiện bi thảm đã xảy ra sau 1975, càng không có một kiến thức gì về thể chế VNCH ở miền Nam trước 1975. Họ bị tẩy não và nhồi sọ để phỉ báng nền VNCH. Họ không biết gì về sự kiện ‘Thuyền Nhân’, với hàng triệu người vượt biên tìm tự do, và trong số đó có gần nửa triệu người bỏ mạng trên biển hoặc rừng sâu nước độc. Đó là một trang sử bi thảm nhất của dân tộc. Cuốn sách của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ là một đóng góp có giá trị cho khoảng trống lịch sử đó mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam muốn giấu nhẹm.
Tôi Phải Sống có ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh cộng đồng người Việt hải ngoại kỷ niệm 50 năm thuyền nhân Việt Nam. Cuốn sách giúp chúng ta nhớ về quá khứ, trân trọng những giá trị mà cha ông đã tạo dựng cộng đồng người Việt hải ngoại như ngày nay, và đồng thời cũng là một lời nhắc nhở về những bài học lịch sử. Cuốn sách là một tài liệu tham khảo quý giá cho những ai muốn tìm hiểu về một giai đoạn lịch sử quan trọng của Việt Nam.
Nguyễn Văn