Phạm Trọng Chánh : Giáo sư Lê Thành Khôi từ trần ngày 28-1-2025, thọ 102 tuổi
Giáo sư Lê Thành Khôi vừa từ trần ngày 28-1-2025 lúc 10 giờ sáng tại nhà riêng tại Paris thọ 102 tuổi. Tang lễ sẽ cử hành ngày thứ hai 10-2-2025 tại nghĩa trang Père La Chaise 55 rue Rondeaux, 75020 Paris từ 13 giờ 30 đến 14 giờ 30.
Sử gia Phan Huy Lê nhận định Giáo sư Lê Thành Khôi là nhà bác học, nhà sử học và văn hóa lớn của đất nước. Là một Giáo sư Đại học, Khoa trưởng phân khoa Giáo Dục tại Paris Sorbonne đại học hàng đầu thế giới. Được mời làm tư vấn cho các tổ chức quốc tế như UNESCO, BIT, ACCT (Tổ chức Hợp tác Văn hoá Kỹ thuật các nước Pháp ngữ), Trường Đại Học Liên Hiệp Quốc Tokyo, Chương Trình UNDP. Được Liên Hiệp Quốc gửi đi làm cố vấn Giáo Dục cho hơn 40 quốc gia trên thế giới. Với những công trình nghiên cứu đồ sộ về lịch sử, văn hóa, giáo dục, thi ca, mỹ thuật… xuất bản bằng tiếng Pháp, phải 23 trang sách trong quyển Từ Đông sang Tây của các giáo sư tên tuổi Việt Nam và thế giới viết tặng Gs Lê Thành Khôi năm mừng thọ 80 tuổi, mới kể hết những tác phẩm, các hoạt động, các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế như Critique, Synthèses, Eastern World, Tiers Monde, Communità, Revue Economique, Le Courier de l ́Unesco, Revue Internationale des Sciences Sociales, Comparative Education Review… Khi về hưu năm 1992, với học hàm Giáo sư Danh Dự, giáo sư vẫn tiếp tục viết sách trước tác những công trình lớn về Lịch sử và tuyển tập văn học Việt Nam.
Trung tâm International Biographical Center (Cambridge) vinh danh ông là Nhà Giáo Dục Quốc Tế năm 1992-1993. Viện American Biographical Institute vinh danh Người của năm 1993. Năm 2003 Bộ Văn Hóa Pháp phong tặng Chevalier de l’ordre des Arts et des Lettres. Viện Hàn Lâm Pháp tặng ông huân chương lớn « Francophonie »
Giáo sư Lê Thành Khôi là một nhà bác học tên tuổi của thế giới, một niềm hãnh diện của dân tộc Việt Nam đã đóng góp cho sự phát triển Giáo Dục của thế giới.
Tôi có may mắn được học với GS từ năm 1973 đến 1980 tại Viện Đại Học Paris Sorbonne, là người Việt Nam duy nhất trong hơn 40 người soạn luận án Tiến sĩ với sự hướng dẫn của Giáo sư, và được gần gũi với Giáo sư trong các công việc tìm kiếm tài liệu giúp Giáo sư tại Trường Viễn Đông Bác Cổ Paris, Thư Viện Quốc Gia Paris, sinh hoạt trong Hội Khoa Học Xã Hội Việt Nam tại Pháp do Giáo sư làm Chủ Tịch… Khó mà nói hết trong một bài viết 42 quyển sách và 23 bộ sách viết riêng tác phẩm chính của Giáo sư. Trong đó có những công trình đồ sộ như Lịch Sử và Văn Minh, Giáo Dục : Văn Hóa và Xã Hội hay Lịch sử và Tuyển tập Văn học Việt Nam, Lịch Sử Việt Nam, Kỹ nghệ Giáo Dục..
Dòng dõi Sử gia Lê Văn Hưu thời nhà Lý, Giáo sư Lê Thành Khôi sinh ngày 3-5-1923 tại Hà Nội. Thân phụ là cụ Lê Thành Ý (1893-1973) dạy về văn học Việt Nam tại trường Sinh Từ và trường Albert Sarraut, khi sang Pháp ông giảng dạy Trường Ngôn Ngữ Đông Phương Paris. Cùng với học giả Dương Quảng Hàm, Lê Thước, Nguyễn Lân, Nguyễn Hữu Tiến… Gs Lê Thành Ý thuộc thế hệ những nhà mô phạm lớn của hệ thống giáo dục Pháp Việt.
Được học Trung Học Albert Sarraut, do thân phụ được bổ nhiệm giảng dạy nơi đây. Học Ban Triết, học ngôn ngữ văn hóa La Tinh và Hy Lạp ông say mê đem một đoạn Odyssée dịch ra tiếng Pháp, và làm thơ Pháp. Năm 1945, ông cho ra đời tập thơ tác phẩm đầu lòng L’offrande des tubéreuses (Trang tặng những cành hoa huệ). Trường Pháp không dạy lịch sử Việt Nam, bù vào đấy ông đọc sách ở nhà. Sau khi đỗ Tú Tài Pháp ông theo học Luật, Y Khoa và Mỹ thuật.
Tháng 12 năm 1946, ông sang Pháp du học học trường Luật và Kinh tế, năm 1949 bảo vệ thành công tiến sĩ về kinh tế Nhật Bản (1937-1945). Cũng thời gian này ông theo học với Emile Gaspardone, giáo sư về lịch sử Việt Nam tại Collège de France. Để đọc được những tài liệu cổ xưa Việt Nam ông học Hán ngữ và Việt ngữ tại trường Ngôn ngữ Đông Phương ba năm, thi xong đỗ thủ khoa, ông còn lấy thêm bằng Cử nhân Văn khoa về Sử.
Viết xong quyển Le Viêt Nam : Histoire et Civilisation (Viêt Nam : Lịch sử và Văn minh) năm 1954 Editions de Minuit xuất bản năm 1955, là cuốn sử đầu tiên viết bằng tiếng Tây phương có cái nhìn khác với sách thực dân. Là một tác phẩm khoa học Sử học, khác với các tác phẩm sử học nhằm mục đích tuyên truyền tại Việt Nam. Tác phẩm sử học của Gs Lê Thành Khôi nhanh chóng trở thành tác phẩm căn bản cho tất cả các nhà nghiên cứu về Việt Nam trên thế giới. Quyển sách này đã đem lại cho nhiều trí thức, sinh viên và ngay cả chính giới phương Tây đặc biệt ở Pháp và Mỹ những nhận định chính xác và nghiêm túc về lịch sử và văn hoá Việt Nam.
Năm 1950 ông tốt nghiệp Học Viện Luật pháp Quốc Tế (Den Haag. Hà Lan) và sau đó làm trợ giáo ở các trường Đại Học Paris, Caen, Nanterrre. Ông xuất bản hai quyển tủ sách Que sais-je. Kinh tế Đông Nam Á,1958 và Lịch Sử Đông Nam Á, 1959. Năm 1960 ông làm việc ở Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế và Xã hội (IEDES Paris) với tư các Tổng thư ký tạp chí Tiers-Monde rồi chuyển sang làm Giám đốc Nghiên cứu. Được bổ nhiệm vào Ecole Pratique des Hautes Etudes với cương vị Chargé de Conférances. Từ năm 1963 ông làm tư vấn cho các tổ chức quốc tế như Unesco.
Năm 1968 ông trình luận án về Công nghiệp Giáo Dục để lấy bằng Tiến Sĩ Nhà Nước (Doctorat d’État ès lettres et sciences sociales) Công trình được xuất bản với tên L’industrie de l’enseignement
năm 1968. Năm 1971 ông được bầu làm Giáo sư ngành Giáo Dục So Sánh. Viện Đại Học Paris Descartes và sau đó Khoa Trưởng Phân Khoa Giáo Dục Viện Đại Học Paris Sorbonne.
Với công trình Kỹ nghệ Giáo Dục, Giáo sư Lê Thành Khôi được xem là một trong những người sáng lập một bộ môn khoa học mới : Kinh tế Giáo Dục. Giáo dục từ đây được xem là một nhân tố chính để phát triển Kinh tế. Kinh tế một nước tăng trưởng lũy tiến, qua chứng minh các phép tính kinh tế, sự đầu tư ngành Giáo Dục tại nhiều nước trên thế giới. Thợ được đào tạo chuyên môn có năng xuất cao hơn người không học. Giới trí thức chân chính càng nhiều nước càng phát triển. Không đầu tư Giáo Dục, quốc gia không tiến triển được và bị thụt lùi trong đà tiến bộ của nhân loại.
Tác phẩm Education et civilisation (Giáo dục và văn minh) quyển I. Société hier (Xã hội ngày trước. Paris BIE -Nathan-UNESCO 1995, Education et civilisation quyển II Genèse du monde comtemporain (Giáo dục và văn minh. Sự hình thành của thế giới ngày nay). Paris Unesco. Công trình đồ sộ này là một tổng quan toàn cảnh giáo dục thế giới từ Cổ Đại cho đến ngày nay.
Năm 1955, khi tác phẩm Lịch Sử Việt Nam ra đời đã nổ ra nhiều cuộc tranh luận giữa Gs Lê Thành Khôi và các nhà viết báo trong nước trên báo Nghiên Cứu Lịch Sử. Như quan điểm ông Văn Tân cho rằng lầm lẫn khi viết Gia Long thống nhất đất nước năm 1802, phải nói nhà Tây Sơn mới đúng. Gs Lê Thành Khôi trả lời giải thích : Sau khi thắng, anh em Tây Sơn chia đất với nhau : Nguyễn Huệ chiếm Bắc Hà, Nguyễn Nhạc giữ đất từ đèo Hải Vân đến Bình Thuận, còn Nguyễn Lữ lấy được Gia Định nhưng từ năm 1787 thành này đã lọt vào tay Nguyễn Ánh. Ông Văn Tân không trả lời được nên đã kết án sử gia Lê Thành Khôi là « tiểu tư sản ». Nhiều sách trong nước về sau vẫn tiếp tục cho rằng Nhà Tây Sơn thống nhất Việt Nam một thời gian dài. Ngày nay thì hầu hết mọi sử gia đều công nhận, nhà Tây Sơn tạo tiền đề và vua Gia Long là người thực sự thống nhất Việt Nam.
Một ví dụ khác, nhiều sách vẫn nói 4000 năm lịch sử Viêt Nam. Nếu vậy thì mỗi vua Hùng trị vì 100 năm. Làm sao có được! Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên (Thế Kỷ XIV) viết rằng Hùng Vương dựng nước vào cuối thế kỷ XIV trước Công Nguyên, nghĩa là trung bình mỗi vua Hùng trị nước khoảng 20 năm, như vậy thì có khả tín.
Một vấn đề khác là « việc nhập cảng » những khái niệm không thích hợp với hoàn cảnh Việt Nam, chẳng hạn như khái niệm « trung đại ». Dùng khái niệm « trung đại » có lý ở Âu Châu để chỉ thời đại giữa Cổ Đại (Hy Lạp và La Mã) và Phục hưng. Nhưng ở Đông Á đâu có gì gọi là « Phục hưng ». Trong lịch sử nghìn năm độc lập của Việt Nam, thay đổi chính yếu giữa giai đoạn 939-1428 (gọi tắt là Lý-Trần) và giai đoạn 1428-1862 (gọi tắt là Lê Nguyễn) là một sự thay đổi chính trị và tư tưởng. Giai đoạn 1 dùng Tam Giáo với Phật Giáo đứng đầu, và giai đoạn 2 là Nho quan. Cần chú ý « sĩ » không phải là một giai cấp vì có sự phân chia nội bộ, người thi đỗ thì làm quan, người không thi đỗ thì về quê mở trường dạy học, nhiều khi đứng về phía nhân dân chống lại triều đình.
Còn nhiều danh từ khác không đúng như « phong kiến » dịch từ chữ « féodal » của Tây Phương, là chế độ nhà vua phong đất cho chư hầu, mỗi chư hầu mang tên vùng đất và cha truyền con nối, các lãnh chúa toàn quyền sinh sát trên mảnh đất của mình. Nhiều sử gia dùng bừa bãi dùng từ « phong kiến » chỉ chế độ Việt Nam từ thời xưa bao gồm cả thời Bắc Thuộc dưới sự cai trị nhà Hán cho đến năm 1945. Việc gán ghép những tội lỗi phong kiến Tây Phương vào « phong kiến Việt Nam » gây nên những thảm họa. Theo tôi nó còn mang đến những tai họa không lường trước được như thời Cải Cách Ruộng Đất, các cụ tiến sĩ Nho học vùng Thanh Nghệ Tĩnh bị mang ra đấu tố tội « phong kiến địa chủ », vài mẫu ruộng gia đình lưu truyền để cúng tế trở thành tội « Địa chủ ». Đình, chùa, miếu di tích của « phong kiến » bị phá sạch trong chủ trương « phá đình chùa lấy gạch ngói xây trường học » cụ Nghè Nguyễn Mai cháu năm đời Thi hào Nguyễn Du, bị bản án 15 năm tù và chết trong tù sau ba năm, chốn rừng thiêng nước độc vùng Hương Sơn. Cụ Nguyễn Khắc Niệm cha bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, trí thức hàng đầu Việt Nam, cũng không thoát tội ‘phong kiến địa chủ’ của các ông Trời con. Ai dám nghĩ sự lầm lẫn khi dịch sai một danh từ đã ra những thảm họa lịch sử này. Ngày nay các sách vở giáo khoa Việt Nam vẫn còn tiếp tục chửi bới chế độ « phong kiến », không chỉ ở miền Bắc trước năm 1975, mà miền Nam bài hát Suy tôn Ngô Tổng Thống ca tụng nhà chí sĩ « bài Phong kiến, chống Cộng ».
Ngoài những tác phẩm về Sử Học, Giáo Dục, Kinh Tế, Giáo sư Lê Thành Khôi còn viết những tác phẩm văn chương, mỹ thuật như La pierre d ́amour (Khối tình) Paris Ed Minuit 1959.
Dịch Chinh phụ ngâm (Chant de la femme du combattant) của Phan Huy Ích và Đặng Trần Côn, Paris Gallimard 1968. Un désir de beauté (Yêu cái đẹp) Paris, Horizons du Monde 2000. Voyages dans les cultures du Vietnam (Du hành trong các nền Văn hóa Việt Nam), Paris Horizon du monde, 2001. Arts du Vietnam: La fleur du pêcher et l’oiseau d’azur, sách viết chung với C. Noppe và J F HubertMusée, Royal de Mariemont 2002. Viet Nam: Art et cultures de la Préhistoire à nos jours (Sách viết chung) Musée Royaux d’Art et Histoire, Bruxelles, 2003. Quelques pas au Sud des Nuages (Vài bước ở Vân Nam), Paris Indes Savantes, 2005. Đặt biệt là để minh họa cho các tác phẩm của mình Giáo sư Lê Thành Khôi còn học nhiếp ảnh, để tự chụp lấy các ảnh đẹp, trình bày các hình ảnh bên cạnh bài viết.
Về xã hội Việt Nam, sau những chuyến du hành thăm đất nước từ năm 1970, Giáo sư nhận định qua những buổi nói chuyện tại Paris, Giáo sư thẳng thắng cho rằng : “Xã hội Việt Nam bế tắc vì nhân dân Việt Nam phải gánh chịu một cổ hai tròng.” Một tròng của đảng CSVN và một tròng của Nhà Nước. Bộ máy tổ chức cồng kềnh, nhân dân phải nuôi vừa cán bộ đảng, vừa cán bộ nhà nước do đó người lãnh lương không đủ sống chỉ giả vờ làm việc, người có quyền chức không đủ sống phát sinh ra nạn tham nhũng. Cả nước mất thì giờ trong việc họp hành, báo cáo.
Một đời làm việc không ngơi nghỉ, thú vui của Giáo sư Lê Thành Khôi là đi đấu giá các cổ vật Việt Nam tại Pháp. Và đi du lịch cả trăm nước trên thế giới để mua về những cổ vật. Đặt biệt là cổ vật Việt Nam và Đông Á, năm 2015 Giáo sư Lê Thành Khôi đã trao tặng khoảng 330 cổ vật quý cho Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Việt Nam.
Giáo sư Lê Thành Khôi kết hôn cùng bà Thẩm Thị Hồng Anh (1930-2018), dược sĩ, họa sĩ. Là trưởng nữ dược sĩ Thẩm Hoàng Tín tại Hà Nội, từng giữ chức Thị Trưởng Hà Nội. Ông bà có ba người con : Lê Thi Hương Du (1955), từng đỗ thủ khoa nội trú Y Khoa nước Pháp. Bác sĩ Nội Khoa tại Bệnh Viện Đại Học Pitié Salpêtrière. Lê Vân Dao (1957) tốt nghiệp Đại Học Kinh Tế Sorbonne. Và Lê Hồng Nguyên (1959) tức nhạc sĩ Nguyên Lê học triết học và mỹ thuật nhưng Nguyên Lê lại đam mê Âm Nhạc, học đàn bầu, Nguyên Lê chuyên kết hợp Âm nhạc Cổ truyền Việt Nam với nhạc jazz tạo thành những âm điệu mới và nổi tiếng được mời đi trình diễn tại nhiều nơi trên thế giới.
Giáo sư Lê Thành Khôi qua đời ở tuổi thượng thọ 102 tuổi, một đời hoàn thành viên mãn những ước nguyện và đạt được đỉnh cao những thành tựu của người trí thức Việt Nam tại nước ngoài. Và đóng góp vào sự cải cách Giáo Dục cho hơn 40 quốc gia trên thế giới của Tổ chức Văn Hóa, Khoa Học Giáo Dục Liên Hiệp Quốc. Là môn sinh gần gũi với Giáo sư tôi không khỏi bồi hồi xúc động những tình cảm giáo sư đã dành riêng cho tôi. Khi tôi mới sang Pháp, Giáo sư đã viết giấy ân cần giới thiệu cho tôi được cư trú tại nhà Đông Nam Á, Cư Xá Sinh Viên Quốc Tế Paris. Khi tôi soạn luận văn tốt nghiệp về Giáo Dục Việt Nam thời Pháp thuộc và khi soạn luận án Tiến sĩ về Giáo Dục tại Miền Nam Việt Nam 1954-1975, Giáo sư đã ân cần chỉ dẫn và giới thiệu đến những nơi có tài liệu như thư Viện Quốc Gia Pháp và Trường Viễn Đông Bác Cổ Paris.. Giáo sư Lê Thành Khôi giới thiệu tôi gặp Gs Hoàng Xuân Hãn để xin Chương Trình Giáo Dục năm 1945 khi ông làm Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục, nhưng gặp Gs Hoàng Xuân Hãn thì tôi lại say mê thêm công việc nghiên cứu Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du và các nhà thơ cổ điển Việt Nam viết bằng chữ Hán. Sau khi xong luận án Tiến sĩ, Giáo sư Lê Thành Khôi muốn giới thiệu tôi đi dạy tại các nước Phi Châu vài năm rồi trở về làm việc tại Đại Học Pháp đó là thông lệ trong ngành Đại Học, nhưng các con tôi đang học Louis Le Grand, Henri IV những trường trung học hàng đầu nước Pháp, tôi đành lỗi hẹn với Giáo sư. Khi tôi nằm bệnh viện Giải phẫu thay tĩnh mạch tim cách đây 12 năm, Giáo sư đã gọi điện thoại ân cần thăm hỏi và khuyến khích tôi vượt qua những ngày tháng nguy khó.
Hôm nay Gs Lê Thành Khôi đã vĩnh viễn ra đi, sự nghiệp một đời giới thiệu đất nước văn hoá và con người Việt Nam cho thế giới. Tấm lòng yêu nước và nhân cách gương mẫu, Giáo sư Lê Thành Khôi là một nhà Giáo dục lớn không chỉ của Việt Nam mà của thế giới. Giáo sư Lê Thành Khôi đã để lại một công trình trước tác nghiên cứu đồ sộ, từ lịch sử đến toàn bộ văn học Việt Nam với cái nhìn chính xác đúng đắn không thiên vị, không tuyên truyền đã khiến cho người nghiên cứu Việt Nam Học trên thế giới kính phục, xem như tài liệu căn bản không thể thiếu sót trong bất cứ một luận án, một sách nghiên cứu nào.
TS Phạm Trọng Chánh