Song Chi: Ông Nguyễn Phú Trọng qua đời
Sự ra đi của ông Nguyễn Phú Trọng có ý nghĩa, tác động như thế nào đến Việt Nam và thế giới?
Báo chí trong nước loan tin ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam, từ trần vào lúc 13 giờ 38 phút ngày 19/7/2024.
Với đa số người dân việc này có lẽ không có tác động gì nhiều, từ lâu rồi người dân đã quen với việc bị đặt vào vị trí “khán giả bất đắc dĩ” đứng quan sát mọi diễn biến chính trường ở Việt Nam nên ai lên ai xuống, ai sống ai từ trần cũng thế. Với quốc tế có lẽ cũng vậy vì Việt Nam không phải là một nước lớn, có vai trò ảnh hưởng đến cục diện chính trị thế giới như Mỹ, Trung Quốc, các nước châu Âu…Có chăng là những tác động trong đảng, với những người từ trước đến giờ thuộc phe ông Nguyễn Phú Trọng thì sẽ cảm thấy mất đi chỗ dựa chính trị, cái ghế có khả năng lung lay; ngược lại, với những người thuộc phe đang lên là ông Tô Lâm–Chủ tịch nước đồng thời vừa được tạm giữ vị trí quyền Tổng Bí thư thì sẽ càng tập hợp quanh ông Tô Lâm, củng cố thêm vị trí của mình.
Từ đây cho tới đại hội đảng khóa XIV vào đầu năm 2026, và trước đó nữa, là Hội nghị Trung ương 10 khóa 13 dự kiến diễn ra vào tháng 10 theo như ông Nguyễn Phú Trọng khi còn sống cho hay, sẽ bàn phương hướng công tác nhân sự cho Đại hội 14, ông Tô Lâm sẽ phải tiếp tục củng cố quyền lực, mặt khác thuyết phục mọi đảng viên, mọi cá nhân trong Bộ chính trị hoàn toàn thần phục, chấp nhận mình. Khả năng đấu đá tranh giành quyền lực và chuyện khủng hoảng nhân sự sẽ còn tiếp diễn cho đến khi các cái “ghế” đã được sắp xong, nhưng với cái thế rất vững hiện nay của ông Tô Lâm, có lẽ cũng không có biến động gỉ lớn.
Vị trí, tầm ảnh hưởng của ông Nguyễn Phú Trọng
Ở Việt Nam dưới chế độ độc tài do đảng cộng sản lãnh đạo, không có một quan chức lãnh đạo nào từ cấp tỉnh, thành cho tới trung ương có thể một bước nhảy ngang vào một vị trí nào đó, phải là đảng viên đảng cộng sản và có quá trình đi từ dưới lên trên. Ông Nguyễn Phú Trọng cũng vậy, trước khi ngồi vào ghế Tổng Bí thư, ông đã có cả một bề dày hoạt động chính trị, từ Ủy viên trung ương đảng khóa VII cho tới khóa XIII là hơn 30 năm, Ủy viên Bộ Chính trị khóa VIII cho tới khóa XIII– hơn 26 năm, từng là Phó Bí thư thành ủy Hà Nội, Bí thư thành ủy Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Chủ tịch Quốc Hội v.v…Riêng với chức vụ Tổng Bí thư, kể từ sau thời Lê Duẩn, ông Nguyễn Phú Trọng là Tổng Bí thự tại vị lâu nhất –cho đến thời điểm hiện tại là 13 năm hơn 180 ngày. Ông Nguyễn Phú Trọng đã phá bỏ điều lệ đảng quy định về việc chức vụ Tổng Bí thư không quá hai nhiệm kỳ liên tiếp, cũng như quy định về việc Ủy viên Bộ Chính trị để được tái cử phải “không quá 65 tuổi”, để tiếp tục giữ chức vụ Tổng bí thư nhiệm kỳ thứ ba, khi đã 77 tuổi (năm 2021).
Sau khi ông Trần Đại Quang, Chủ tịch nước qua đời vào tháng 9.2018, ông Nguyễn Phú Trọng trở thành người thứ ba trong lịch sử của đảng Cộng sản Việt Nam nắm giữ cả hai cả hai chức vụ đứng đầu Đảng và nhà nước, sau Hồ Chí Minh và Trường Chinh.
Nhắc lại những điều này để thấy trong vòng vài thập niên trở lại đây, ông Nguyễn Phú Trọng là người có một vị trí và quyền lực không nhỏ. Cũng chính ông Nguyễn Phú Trọng đã đưa quyền lực của đảng trở lại, mạnh hơn quyền lực của bên chính phủ sau thời gian quyền lực của chính phủ lấn lướt đảng dưới thời ông cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Chúng ta biết, Đảng cộng sản lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lãnh đạo Quân đội nên Tổng Bí thư (kiêm nhiệm Bí thư Quân ủy Trung ương) là chức danh lãnh đạo cao nhất đối với quân đội, ngoài ra ông Trọng cũng cùng lúc đảm nhiệm nhiều chức vụ khác là Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Trưởng Tiểu ban nhân sự Đại hội XIV (được thành lập ngày 8/10/2023)…Cho nên quyền lực của ông Trọng phải nói là bao trùm từ đảng, quân đội, công an, cho tới việc xây dựng, giới thiệu nhân sự cho đảng và chính quyền.
Hình ảnh của ông Nguyễn Phú Trọng–Người cộng sản cuối cùng?
Trong những năm ở đỉnh cao quyền lực, ông Trọng đã tích cực xây dựng hình ảnh của mình với phong cách giản dị, liêm khiết, ăn mặc xuề xòa như cách lãnh đạo thời kỳ đầu, và thường xuyên nhắc tới chủ nghĩa Mác Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa v.v…Có lẽ vì vậy mà có nhiều người định danh ông là “người cộng sản cuối cùng” trong một chế độ tuy vẫn là đảng cộng sản nắm quyền tuyệt đối, nhưng từ thực tiễn xã hội Việt Nam cho tới cách sống của đại đa số đảng viên cộng sản đã hoàn toàn đi ngược với lý thuyết, lý luận, mô hình nhà nước của chủ nghĩa cộng sản, với lý tưởng của đảng cộng sản thời kỳ đầu, và trong thâm tâm của đại đa số đảng viên cho tới người dân chắc cũng chẳng còn mấy ai tin vào những điều đó nữa.
Nhưng với ông Trọng thì có lẽ ông thực sự vẫn tin vào chủ nghĩa Mác Lênin cho tới con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam cho dù có lần ông đã từng nói “không biết đến cuối thế kỷ này đã có chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hay chưa”.
Cả một đời học và công tác trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận, xây dựng đảng, ông Trọng rất khó thay đổi. Và đúng là trong mắt ông Trọng thì đúng là đảng cộng sản đã thành công rực rỡ, xã hội cũng như vị thế của Việt Nam đã khá hơn rất nhiều so với thời chỉ có một nửa nước là miền Bắc trước năm 1975 hay thời bao cấp, kinh tế khốn cùng, đối ngoại lại bị bao vây, cấm vận, đến mức ông đã từng thốt lên ‘Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ như ngày nay’.
Vừa là hình ảnh của một người cộng sản kiểu cũ, vừa có dáng dấp của một ông giáo làng, ông thầy đồ khi mở miệng ra là nói đạo đức, lẩy Kiều, làm thơ.
Còn trên thế giới, hình ảnh ông Nguyễn Phú Trọng cũng là một chính khách, lãnh đạo quốc gia trông khá là bảo thủ, lạc hậu, kiên định với việc bảo vệ đảng, bảo vệ chế độ. Một người thân Trung Quốc và vẫn giữ tình cảm với nước Nga, mặc dù đảng của ông vẫn mở cửa với phương Tây. Với Trung Quốc, điều đó thể hiện qua mối quan hệ gắn bó “cùng chung vận mệnh” giữa hai đảng dù thăng trầm, có những xung đột về chủ quyền, lãnh thổ lãnh hải, còn bản thân ông Trọng thì nhất nhất học theo Tập Cận Bình. Chẳng hạn, họ Tập có phong trào chống tham nhũng “đả hổ, diệt ruồi, săn sói, quét muỗi” thì Nguyễn Phú Trọng cũng nêu cao quyết tâm chống tham nhũng. Nhưng tham nhũng ở Trung Quốc hay ở Việt Nam thì không thể nào tiêu diệt được, một khi hai quốc gia này còn tồn tại mô hình thể chế chính trị độc tài độc đảng với quyền lực của đảng cộng sản đứng trên cả luật pháp, tư pháp, hành pháp lẫn truyền thông. Cho nên chống tham nhũng ở hai quốc gia này chỉ là tiêu diệt phe cánh mà thôi.
Ở Trung Quốc, quyền lực của Tập Cận Bình cực lớn. Việc tư tưởng của Tập Cận Bình được đưa vào bản hiến pháp sửa đổi sau phiên họp của đảng Cộng sản Trung Quốc trong tháng 1.2018 đã đặt ông Tập ngang hàng với hai cố lãnh đạo Trung Quốc là Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình. Chưa kể, Đảng Cộng sản Trung Quốc vào ngày 25.2.2018 đã đề xuất bỏ điều khoản giới hạn thời kỳ nắm quyền hai nhiệm kỳ của chủ tịch trong hiến pháp nước này, mở đường cho ông Tập Cận Bình nắm quyền vĩnh viễn, chẳng khác nào một ông Vua.
Nguyễn Phú Trọng có lẽ cũng mơ có một vị trí như thế, nhưng từ tầm nhìn, tư duy, năng lực, cho tới bản lĩnh, ông Trọng vẫn còn thua Tập Cận Bình rất xa. Và chính tính cách, con người của ông Nguyễn Phú Trọng đã góp phần vào sự thất bại của các chính sách lớn trong đời ông, bên cạnh lý do mô hình, thể chế.
Di sản.
Ông Nguyễn Phú Trọng vừa nằm xuống, báo chí tiếng Việt khắp nơi nói về di sản của ông. Tựu trung lại, về đối nội, như nhiều người đã chỉ ra, điều lớn nhất mà ông đã làm là chiến dịch đốt lò chống tham nhũng. Nhưng kết quả là gì? Hàng ngàn đảng viên bị mất chức, vào tù hoặc phải từ chức. Không thể nhớ hết là bao nhiêu người, bao nhiêu vụ án thậm chí đại án, siêu đại án đã được khui ra. Bản thân ông Trọng khơi dậy chiến dịch đốt lò chống tham nhũng này để cứu đảng, cứu uy tín của đảng nhưng lại làm cho đảng mất uy tín hơn, người dân mất lòng tin hơn. Ngay cả những người bao nhiêu lâu nay chỉ nghe theo những lời tuyên truyền của đảng và nhà nước cũng phải thấy là tham nhũng đã trở thành một căn bệnh ung thư của đảng bởi vì chính thể chế này đã tạo ra và nuôi dưỡng tham nhũng. Việc dùng nhân trị, đức trị kiểu như ông Trọng thường xuyên nhắc nhở đảng viên không được làm này làm kia v.v… không ăn thua gì, còn dùng luật pháp thì cũng lại vừa “đánh chuột” vừa sợ “vỡ bình”.
Công cuộc đốt lò đó cũng đã tạo cơ hội cho những cuộc đấu đá tranh giành quyền lực, hạ bệ lẫn nhau: Ông Nguyễn Phú Trọng với ông Nguyễn Tấn Dũng, ông Nguyễn Phú Trọng với Nguyễn Xuân Phúc, rồi với Tô Lâm. Cuối cùng quyền lực lại rơi vào tay Tô Lâm.
Người ta cũng nhắc đến thất bại của ông Trọng trong tuyển chọn nhân sự. Hàng loạt người do ông Trọng giới thiệu đều bị khui ra có dính dáng đến tham nhũng và phải rời ghế, mới đây nhất là Võ Văn Thưởng, Vương Đình Huệ.
Đó là chưa nói đến các quyền tự do dân chủ, tình trạng nhân quyền ở Việt Nam dưới thời ông Trọng đã xấu đi tệ hại với bao nhiêu nhà báo, blogger, nhà hoạt động xã hội dân sự, luật sư nhân quyền ….phải vào tù, các chỉ số tự do báo chí, tự do tôn giáo…của Việt Nam luôn luôn nằm ở top 5 quốc gia tệ nhất.
Về đối ngoại, người ta nhắc đến chính sách đa phương, “ngoại giao cây tre” của đảng cộng sản Việt Nam dưới thời ông Trọng.
Dù sao cũng phải thừa nhận là dù vẫn gắn chặt với Tàu, Nga, nhưng Việt Nam vẫn mở cửa với thế giới, tạo lập và nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược và chiến lược toàn diện với phương Tây, nhất là Hoa Kỳ. Ông Nguyễn Phú Trọng đã thuyết phục được người Mỹ công nhận tính chính danh của đảng và nhà nước cộng sản, bản thận ông thì được phía Mỹ mời sang thăm Nhà Trắng như một nguyên thủ quốc gia, và ngược lại cũng đã đã đón, gặp mấy đời tổng thống Mỹ kế tiếp nhau tới Hà Nội.
Nhưng “ngoại giao cây tre” về lâu dài lợi hay hại thì còn phải chờ xem.
Cũng có người nhắc đến việc ông Trọng và đảng của ông đã giữ được hòa bình với nước láng giềng Trung Quốc, giữ được ổn định chính trị trong nước.
Nhưng câu hỏi là giữ được hòa bình với giá nào? Kể từ sau cuộc chiến tranh biên giới với Trung Cộng vào năm 1979 (nhưng trên thực tế xung đột vẫn dằng dai cho đến tận năm 1988), trong khi Trung Quốc đã đầu tư “khủng” vào quân đội, quốc phòng, nhất là hải quân, xây dựng các căn cứ quân sự trên các đảo Hoàng Sa, Trường Sa chiếm được của Việt Nam và một số đảo nhân tạo, thì quân đội, hải quân các thứ của Việt Nam ra sao? Nếu bây giờ lại xảy ra cuộc chiến với Trung Quốc thì Việt Nam sẽ trụ được bao lâu? Đó là chưa nói đến mối quan hệ lạnh nhạt đi giữa Việt Nam-Campuchia và Campuchia đã ngả hẳn về phía Trung Quốc, làm tăng thêm mối lo ngại cho Việt Nam.
Còn về sự ổn định chính trị, một điều mà đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam luôn luôn tự hào nhắc đi nhắc lại nhưng thời gian vừa qua, khi những cuộc đấu đá thay người ngay cả ở các cấp cao nhất liên tục xảy ra đã cho thấy sự bất ổn, khủng hoảng chính trị của Việt Nam.
Rồi đây, khi chế độ của đảng cộng sản không còn nữa, lịch sử sẽ được đánh giá lại một cách minh bạch, công bằng mọi khuôn mặt nổi bật của đảng như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn cho tới Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Phú Trọng…
Tương lai của Việt Nam
Sau thời kỳ của ông Nguyễn Phú Trọng chuyển sang thời kỳ của ông Tô Lâm, có lẽ tình hình chính trị-xã hội của cũng không thay đổi gì nhiều. Nếu Tô Lâm chính thức trở thành Tổng Bí thư, cùng lắm là có chuyện nhất thể hóa 2 chức vụ Tổng Bí thư và Chủ tịch nước như bên Trung Quốc và nếu như vậy có nghĩa là Việt Nam sẽ hoàn tất quá trình trở thành một nhà nước độc tài độc đảng công an trị với quyền lực tập trung chủ yếu vào một người. Còn trong ngắn hạn chưa có triển vọng gì về chuyện dân chủ hóa, đa đảng. Con đường đi vẫn sẽ như vậy, chỉ trừ phi có một biến cố gì lớn trên thế giới làm xáo trộn nhiều thứ và tác động đến Việt Nam, khiến Việt Nam phải đứng trước sự lựa chọn thay đổi hay là chết.
Nhưng tất nhiên, người dân Việt Nam nếu muốn có tự do dân chủ, nếu muốn cho tương lai đất nước, dân tộc Việt Nam sáng sủa hơn thì không thể ngồi chờ sự thay đổi từ bên ngoài hay từ trên xuống mà mỗi người phải tự mình góp phần vào sự thay đổi ấy.
Song Chi