Thơ Billy Collins, Linh Văn dịch

Collins in La Jolla, San Diego, 2008, 

N.D: Billy Collins là nhà thơ người Mỹ. Ông tên thật là William James Collins, sinh năm 1941. Ông từng là giáo sư tại City University of New York, về hưu năm 2016. Ông từng được bổ nhiệm làm Poet Laureate từ năm 2001 đến 2003. Các tập thơ tiêu biểu của ông gồm có The Apple That Astonished Paris (1988), Questions About Angels (1991), The Art of Drowning (1995).

***

Dẫn nhập Thi ca

Tôi bảo họ lấy một bài thơ

và hướng nó về phía ánh sáng

như một tấm phim màu

hoặc ấn một cái tai vào tổ ong của nó.

Tôi bảo họ thả chuột vào một bài thơ

và xem nó dò ra lối thoát,

hoặc bước vào căn phòng của một bài thơ

và sờ lên tường để tìm công tắc đèn.

Tôi muốn họ trượt nước

qua bề mặt của một bài thơ

vẫy gọi tên tác giả ở trên bờ.

Nhưng tất cả những gì họ muốn 

là buộc bài thơ vào ghế bằng dây thừng

và khảo tra một lời thú tội.

Họ bắt đầu đập nó bằng vòi

để tìm ra thực sự nó nghĩa chi.

“Introduction to poetry”, từ tập thơ The Apple that Astonished Paris (1988)

Introduction to Poetry 

I ask them to take a poem

and hold it up to the light

like a color slide

or press an ear against its hive.

I say drop a mouse into a poem

and watch him probe his way out,

or walk inside the poem’s room

and feel the walls for a light switch.

I want them to waterski

across the surface of a poem

waving at the author’s name on the shore.

But all they want to do

is tie the poem to a chair with rope

and torture a confession out of it.

They begin beating it with a hose

to find out what it really means.

xxxx

Đời tôi

Thi thoảng tôi thấy nó như một đường thẳng

vẽ bằng bút chì và thước kẻ

cắt ngang vòng tròn của thế giới

hoặc như một ngón tay

xuyên qua một chiếc nhẫn khói, ngẫu nhiên, tọc mạch

nhưng rồi mặt trời sẽ ló dạng

hoặc điện thoại sẽ đổ chuông

và tôi sẽ ngừng lại để thắc mắc

liệu nó là một thứ,

một quả bóng lớn chứa không khí và hồi ức,

hay là nhiều thứ,

một loạt những thị tứ nhỏ làm nông,

một con đường tối quanh co xuyên qua chúng.

Chúng ta hãy nói rằng nó là một cánh đồng

tôi cuốc mỗi ngày,

cuốc và hát ca,

rồi ngủ tại một trong những luống cày của nó,

hoặc bây giờ nó đã quá bán,

một cánh cửa mở một phần,

mưa rỉ rả từ mái hiên.

Giống như của bạn, nó có thể là bất cứ gì,

một cái tổ với một quả trứng,

một hành lang dẫn đến một ngàn căn phòng –

bất cứ điều gì xảy ra trôi vào tầm nhìn

khi tôi nhắm mắt lại

hoặc nhìn ra cửa sổ

trong hơn vài phút,

để có đôi ngày tôi nghĩ rằng

nó phải là tất cả và là không gì cùng lúc.

Nhưng sáng nay, ngồi dậy trên giường,

mặc áo len đen và đeo kính,

rèm và cửa sổ đã được kéo lên,

tôi là một cái hồ, thơ của tôi là chiếc thuyền không,

và đời tôi là làn gió thổi

qua toàn cảnh

làm lay động mọi thứ nó chạm vào – 

mặt nước, cánh buồm ủ rũ

thậm chí cả những cái cây sum suê rậm rạp dọc bãi bờ.

“My life” – xuất bản trên tạp chí “Poetry” tháng 3 năm 1997

My life

Sometimes I see it as a straight line
drawn with a pencil and a ruler
transecting the circle of the world

or as a finger piercing
a smoke ring, casual, inquisitive

but then the sun will come out
or the phone will ring
and I will cease to wonder

if it is one thing,
a large ball of air and memory,
or many things,
a string of small farming towns,
a dark road winding through them.

Let us say it is a field
I have been hoeing every day,
hoeing and singing,
then going to sleep in one of its furrows,

or now that it is more than half over,
a partially open door,
rain dripping from eaves.

Like yours, it could be anything,
a nest with one egg,
a hallway that leads to a thousand rooms —
whatever happens to float into view
when I close my eyes 

or look out a window
for more than a few minutes,
so that some days I think
it must be everything and nothing at once.

But this morning, sitting up in bed,
wearing my black sweater and my glasses,
the curtains drawn and the windows up,

I am a lake, my poem is an empty boat,
and my life is the breeze that blows
through the whole scene

stirring everything it touches —
the surface of the water, the limp sail,
even the heavy, leafy trees along the shore.

xxxx

Im lặng

Có sự im lặng thất thần của đám đông

phía trên một cầu thủ bất động trên sân,

và sự im lặng của hoa phong lan.

Sự im lặng của chiếc bình đang rơi

trước khi chạm sàn,

sự im lặng của chiếc thắt lưng khi nó không quật vào đứa trẻ.

Sự tĩnh tại của cốc nước và nước ở trong cốc,

sự im lặng của trăng

và sự yên ắng của ngày xa khỏi tiếng gầm của mặt trời.

Sự im lặng khi anh ôm em trong ngực anh,

sự im lặng của cửa sổ phía trên đôi ta,

và sự im lặng khi em trở dậy và quay đi.

Và sự im lặng của sớm mai này

mà anh đã phá vỡ bằng cây bút của anh,

một sự im lặng đã chất chồng suốt đêm

như tuyết rơi trong bóng tối của ngôi nhà—

sự im lặng trước khi anh viết một từ

và sự im lặng thảm thương hơn vào ngay lúc này.

“Silence” – xuất bản trên tạp chí “Poetry” tháng 4 năm 2005

Silence

There is the sudden silence of the crowd 

above a player not moving on the field, 

and the silence of the orchid. 

The silence of the falling vase 

before it strikes the floor, 

the silence of the belt when it is not striking the child. 

The stillness of the cup and the water in it, 

the silence of the moon 

and the quiet of the day far from the roar of the sun. 

The silence when I hold you to my chest, 

the silence of the window above us, 

and the silence when you rise and turn away. 

And there is the silence of this morning 

which I have broken with my pen, 

a silence that had piled up all night 

like snow falling in the darkness of the house— 

the silence before I wrote a word 

and the poorer silence now

xxxx

Thiết kế 

Tôi đổ một lớp muối lên bàn

và vẽ một vòng tròn bằng ngón tay của tôi.

Đây là vòng tròn cuộc đời

Tôi không nói với ai cả.

Đây là bánh xe may mắn,

vòng Bắc Cực.

Đây là chiếc nhẫn của Kerry

và hoa hồng trắng của Tralee

Tôi nói với những hồn ma của gia đình tôi,

với cha ông đã khuất,

với người cô chết đuối,

với anh chị em chưa chào đời,

với những đứa con chưa chào đời của tôi.

Đây là mặt trời với những nan hoa lấp lánh

và mặt trăng đắng cay.

Đây là đường tròn tuyệt đối của hình học

Tôi nói với vết nứt trên tường,

với những cánh chim bay qua cửa sổ.

Đây là bánh xe tôi vừa phát minh ra

để lăn qua phần còn lại của đời tôi

tôi vừa nói

vừa chạm ngón tay vào lưỡi của mình.

“Design”, từ tập thơ The Art of Drowning (1995)

Design

I pour a coating of salt on the table

and make a circle in it with my finger.

This is the cycle of life

I say to no one.

This is the wheel of fortune,

the Arctic Circle.

This is the ring of Kerry

and the white rose of Tralee

I say to the ghosts of my family,

the dead fathers,

the aunt who drowned,

my unborn brothers and sisters,

my unborn children.

This is the sun with its glittering spokes

and the bitter moon.

This is the absolute circle of geometry

I say to the crack in the wall,

to the birds who cross the window.

This is the wheel I just invented

to roll through the rest of my life

I say

touching my finger to my tongue.