Trần Doãn Nho: Không chỉ tháng Tư mới tháng Tư
tháng tư
không ngày
không tháng
không năm
tháng nào cũng tháng tư
ngày nào cũng tháng tư
năm nào cũng tháng tư
không chỉ tháng tư mới tháng tư.
Chạy
Trong đời, tính ra, tôi trải qua …năm lần chạy. Mỗi lần chạy là một kinh nghiệm rất riêng.
Lần đầu tiên, thời điểm 1945-1946, tôi chạy giặc với tư cách là…một cậu bé con. Thay vì chạy và đi, thì tôi được gánh. Tôi một đầu, ngồi trong thúng. Đầu kia là một ít gạo và đồ đạc. Cứ thế, mẹ, chị và anh tôi thay nhau gánh, theo đoàn người, tản cư về một nơi vô định. Đêm tìm chỗ nghỉ chân, ngày lại đi, cuối cùng, dừng chân ở ngôi đình hoang thuộc một cái làng xơ xác, vắng hoe, nơi mà chính dân làng cũng…chạy giặc, chỉ còn lơ thơ mấy ông bà già ở lại giữ nhà.
Hơn hai mươi năm sau, chạy giặc Mậu Thân (1968). Khuya mồng một Tết, bộ đội cộng sản đánh chiếm cả góc phía nam Thành Nội, nơi nhà tôi ở. Sau một tuần lễ chịu đựng bom đạn, cả gia đình tôi dắt díu nhau vừa chạy vừa chui vừa rúc vừa lăn, trốn thoát được đến khu Tịnh Tâm, Mang Cá, nơi vẫn còn dưới sự kiểm soát của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Chỉ khoảng 5,7 cây số nhưng đó là một đoạn đường sinh tử. Thật may mắn! Những ai không chạy thoát được nơi cộng sản chiếm, nếu không bị bom đạn vùi dập thì cũng phải sống trong nỗi kinh hoàng của cuộc thảm sát Mậu Thân.
Bốn năm sau, mùa hè đỏ lửa 1972, lại chạy. Kinh nghiệm Mậu Thân đã mang cả Huế ra đi ngay lập tức. Không chần chừ. Không đắn đo. Không tiếc nuối. Khi nghe tin bộ đội cộng sản vượt sông Bến Hải, là Huế đã bắt đầu chạy. Hối hả chạy, bằng mọi cách, mọi giá. Mang được gì thì mang, không mang được thì bỏ lại. Chỉ trong vòng chưa tới một tuần lễ, Huế trống rỗng. Như một phép lạ. Sau khi đưa được gia đình vào Đà Nẳng, tôi trở lại Huế. Chao ôi! Tôi chưa bao giờ chứng kiến một Huế lạ lùng dường ấy. Nhà vắng. Đường không. Chợ trống. Phố lặng. Chỉ có những con ve Huế vô tâm, hoàn toàn chẳng biết gì đến nhân tình thế thái, cứ hát! Gió cũng thế, phất phơ. Nắng cũng thế, rực rỡ. Phượng cũng thế, nở đỏ. Thành quách hoang tàn ẩn nhẫn, phơi mình dưới nắng, nằm im trong cái trống vắng lạ lùng, bất ngờ ngàn năm một thuở. Những đường phố đông đúc, rộn ràng Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng…cửa đóng, để lại những vỉa hè câm, ngơ ngẩn. Đâu rồi những khăn, những áo rộn ràng. Đâu rồi hơi người, hơi tóc. Chợ Đông Ba ủ rũ. Sông Hương sượng sùng. Cố nhìn, cố tìm, nhưng chẳng thấy gì. Ngay cả những người hành khất, những kẻ vô gia cư cũng biến mất. Trước đây, khi Huế tranh đấu, thành phố bị đặt trong tình trạng giới nghiêm, còn có cảnh “Người già co ro, chiều thiu thiu ngủ…em bé lõa lồ, khóc tuổi thơ đi” (Trịnh Công Sơn), lần này …nothing và nobody. Chỉ còn những con chó vô chủ chạy rong. Và bụi bay vô tình. Thỉnh thoảng mới thấy bóng một chiếc xe lính chạy ngang, tiếng máy nổ nghe đơn độc và lạnh lùng. Toàn khu Thành Nội im ắng rợn người, chạy xe vào, tưởng chừng như đang đi vào một khu lăng tẩm bỏ hoang.
thành phố bồng bế nhau
vứt cả rực rỡ hè mới chớm
rùng rùng bỏ chạy
đi đâu?
không biết đi đâu
miễn là xuôi Nam
để lại một cõi lặng
không gian rỗng
sàn diễn trống trơn
những con chó mất chủ chạy rất tự do
và vô vọng
hàng phượng lạc loài
chấp chới bay
gió nắng rong chơi
vòng vèo quanh nội thành ấm ức (Nỗi Huế)
Yên, cả Huế rộn rã trở về.
Nhưng rồi, ba năm sau, 1975, chưa hoàn hồn, Huế lại chạy. Đúng hơn, cả miền Nam chạy. Từ đầu tháng Ba, dân đã chạy. Bất cứ chỗ nào nghe quân đội Cộng Sản sắp tiến vào là chạy. Từ cao nguyên chạy về đồng bằng, từ bắc chạy vào nam, từ các nơi chạy về Sài Gòn, từ đất liền chạy ra biển, từ Việt Nam chạy ra nước ngoài. Không hề có cảnh “từ bắc vô nam nối liền nắm tay” như Trịnh Công Sơn đã từng mơ mộng ngày nào! Chạy. Hễ còn chạy được là chạy. Đi bộ, đi xe, đi thuyền, đi tàu, đi máy bay, đi, đi, đi, đi đâu, miễn là thoát khỏi cộng sản. Chạy: biết bao thảm cảnh, nhất là thảm cảnh thuyền nhân rúng động thế giới. Chạy: một cuộc “bỏ phiếu bằng chân” vô tiền khoáng hậu.
Lần này, ra đi, trong thâm tâm, ai cũng đau đớn nghĩ rằng: Huế sẽ mất vào tay Cộng Sản. Thành thử, chạy là chạy…luôn, không bao giờ trở lại. Là bỏ Huế! Chao ôi, hai chữ “bỏ Huế” nghe như nhát dao đâm ngay giữa trái tim. Nhưng làm sao được. Đành thôi, Huế ơi. Trong tâm trạng đó, vừa đưa được một phần gia đình vào Đà Nẵng vào ngày 22 tháng 3, tôi vội chạy Honda quay trở ra để tìm cách đưa những người thân còn lại vào Đà Nẵng và cũng để được nhìn Huế lần cuối. Nhưng không kịp nữa rồi! Đến đèo Phước Tượng, quốc lộ I bị cắt, đành phải theo đoàn người, trở ngược vào. Huế mất. Gia đình tôi bị chia hai. Vài ngày sau, Đà Nẵng lại nghe tin bị …bỏ. Thành phố chật ních người hoảng loạn. Kẻ xuôi, người ngược, hớt hơ hớt hãi. Người tìm cách chạy vào phi trường, người thì lên đường tiếp tục xuôi Nam, người lại chạy ra biển.
Chiều 29 tháng 3, thấy thiên hạ rùng rùng đi, thế là chúng tôi dắt díu nhau đi, ra bờ biển Tiên Sa. Đêm đó, cả nhà túm tụm lại một chỗ, khắc khoải đợi chờ, dẫu chẳng biết đợi chờ ai, đợi chờ gì. Từ đâu đó trên núi, quân cộng sản liên tục pháo kích vào bãi biển, nhằm khủng bố người di tản ở bến cảng. Bãi biển bỗng trở thành bãi chiến trường. Đạn bay trên đầu, đạn rơi bên trái, bên phải, rơi trước, rơi sau. Bên này nổ, bên kia lại nổ. Tiếng cầu kinh, tiếng niệm Phật hòa cùng tiếng người la, tiếng trẻ con kêu khóc rầm trời. Trong đêm tối, chẳng ai biết đến ai. Cả nhà chúng tôi ôm nhau, không ai nói với ai một lời nào, nhưng trong thâm tâm, mọi người đều cảm thấy rất rõ là đang sống những giây phút cuối cùng của cuộc đời. Nhưng may mắn làm sao, hầu hết đạn đều rơi xuống…nước, vì cứ sau tiếng nổ lại nghe tiếng kêu lỏng bỏng, nước bắn tung tóe lên người. Nhờ thế mà dân chạy giặc tránh khỏi một cuộc tắm máu. Đến khuya, không hiểu sao, pháo ngưng. Và phép lạ đột nhiên xảy đến: một chiếc xà lan quân đội đâu từ ngoài khơi xa, ghé vào.
Như triều dâng, hàng ngàn người vươn dậy, kéo nhau ra bờ nước, mang được gì thì mang, không mang được thì vứt. Lội, bươn bả lội ra, níu nhau trèo vào những chiếc giỏ lưới kéo lên, hết đợt này đến đợt khác, thả người vào lòng tàu. Hàng ngàn người chồng chất như cá trong lòng chiếc xà lan nhỏ hẹp có lẽ chỉ chứa nhiều lắm là vài trăm người. Cuối cùng, đầy quá, họ cho đóng cửa xà lan, để lại hàng ngàn người khác vẫn còn lóng ngóng trên bãi biển. Sau khoảng hơn tiếng đồng hồ, xà lan áp sát vào một chiến hạm của hải quân VNCH đang neo đậu ngoài khơi. Người ta bắt hai dây cáp nối lên boong tàu. Từng người, từng người vịn hai sợi dây, lần lượt leo từ xà lan qua chiến hạm như đi xiếc. Khá nhiều người trật tay, rơi xuống nước, mất tích. Hai ngày thì tàu cập bến Cam Ranh. Hú hồn. Nghe đồn chuyến xà lan đi sau chuyến tôi, khi ra khơi không có tàu nào vớt, vật vờ ngoài biển, sau cũng tấp vào Cam Ranh, nhưng không còn ai sống sót.
Hai ngày sau, vừa tìm được nhà người bà con để tá túc thì nghe Cam Ranh sắp mất. Lại chạy. Nghe có tàu chở hàng Mỹ đậu ngoài khơi, chúng tôi lại dắt díu nhau ra bến cảng. Còn bao nhiêu tiền trút hết mới thuê được một chiếc ghe nhỏ. Đưa được mẹ tôi và mấy đứa em vợ lên ghe, thì người ta giành giựt ghe, bắn nhau, súng nổ loạn trên bến. Chủ ghe sợ quá bèn cho nổ máy chạy. Tôi nhảy vội lên, ngoái lui, đưa hai tay kéo bà vợ (lúc đó đang mang thai đứa con đầu lòng), thì…chiếc ghe tách bến. Hai bàn tay chỉ cách nhau chừng vài tấc, nhưng không nắm được. Tuyệt vọng, nàng đưa tay ngoắc, còn tôi đứng sững đầu mũi ghe nhìn nàng và hai đứa em còn lại trên bờ, bất lực. Bóng những người thân yêu mờ dần trên bến. Gia đình lại chia hai một lần nữa. Não lòng hết biết!
Chiếc tàu chở hàng Mỹ lớn như một dãy cao ốc 9, 10 tầng. Dưới nước, ghe lớn ghe nhỏ vây quanh. Từ trên boong, người ta thả những giỏ lưới lớn xuống để vớt người. Tôi đưa các đứa em lần lượt lên lưới. Không đủ chỗ, nên tôi và mẹ tôi đợi lần tới. Nhưng tàu quá đầy, họ ngừng bốc. Trong lúc vô kế khả thi, hai mẹ con năn nỉ chủ ghe cho cặp sát tàu, liều mạng níu những thanh sắt nối nhau như những bậc thang bên sườn tàu, leo lên, cầu may. Ơn trời! Thế mà cả hai mẹ con đều lên đến boong tàu. Thú thật, tôi không biết sức mạnh nào đã khiến hai mẹ con, nhất là mẹ tôi, một bà già 65 tuổi, có thể thực hiện được một chuyện phi thường dường ấy, vì chỉ sơ sẩy một chút thôi là rơi tỏm ngay xuống biển! Từ trên cao nhìn xuống, người người vẫn còn chen nhau, cố leo lên. Có người bám được. Có người sẩy tay, rơi. Trên mặt nước, đây đó, những chiếc đầu ngoi lên, chìm xuống…Cảnh ngoài hòa cùng nỗi riêng đau đáu khiến tôi trơ cứng, đứng lặng nhìn trời, mất hết cảm giác.
Mấy ngày sau, tàu mang cả mấy chục ngàn người, cập đảo Phú Quốc. Chúng tôi được chuyển vào ở trong một trại tù binh, nơi trước đây giam giữ cán binh cộng sản bị bắt. Ở đó 10 ngày, tôi tìm đường theo tàu hải quân đưa gia đình về Vũng Tàu. Và từ đó, lên Sài Gòn. Một chuyến chạy dài, quá dài, gần như đi vòng hết nửa đất nước. Nhưng khi đến được Sài Gòn thì Sài Gòn đang hấp hối. Chiều 29 tháng Tư/1975, tôi cùng với một người bạn, anh Ng.Ư, rủ nhau lái Honda chạy quanh thành phố, xem “Sài Gòn của mình” lần cuối. Đông đúc, vội vã, hớt hơ hớt hải, Sài Gòn tan tác như đàn gà con mất mẹ. Gần tối, chúng tôi chạy ngang Dinh Độc Lập. Đậu xe bên lề đường, gần góc đường Hồng Thập Tự-Công Lý, tôi bâng khuâng, đau đớn nhìn quanh khu vực, nơi đã từng là cơ quan đầu não của chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
dinh Ðộc Lập úa
như phế tích âm thầm
góc đường Hồng Thập Tự – Công Lý
toán lính nhảy dù ngồi ăn cơm
lá rơi trên tấm poncho
lá rơi trên ga-men
lá rơi thảng thốt
chiếc áo trận nhòe
ngậm ngùi lịch sử
lá rơi, rơi
mải miết như đùa
như trò chơi
như mơ như thực
cuộc phế hưng bủn rủn phận người. (Chiều 29 tháng Tư trên đường Công Lý)
Chao ôi, những người lính! Trong lúc cả nước miền Nam chạy thục mạng, chạy hớt hãi, chạy trối chết…thì nơi đây, vào những giây phút cuối cùng của cuộc chiến, những người lính nhảy dù này vẫn cứ làm nhiệm vụ, sẵn sàng chiến đấu, như …bình thường. Cũng như tôi, nhất định họ biết rằng Sài Gòn sắp mất. Nhưng họ vẫn ở đó, cầm súng canh gác. Tôi bước tới, muốn làm một cử chỉ biết ơn, nhưng anh bạn tôi cản lại. Tôi vẫy tay. Một người lính vẫy tay lại. Trong nhá nhem tối, nhìn nhau ngậm ngùi. Đọc lịch sử, những tưởng chuyện phế hưng chỉ là của ai đó, thế mà bây giờ, mình ở trong cuộc!
Ngày hôm sau, Sài Gòn thất thủ. Tàn cuộc!
Sau này, tôi còn một lần chạy nữa, lần thứ năm: đi Mỹ. Dù đi có giấy tờ, có phép, đi bằng máy bay, nhưng thực chất vẫn là chạy.
Cho đến bây giờ, người Việt Nam, kể cả cán bộ cộng sản và con cái họ, vẫn còn tiếp tục chạy. Bằng mọi hình thức: du học, bảo lãnh, tỵ nạn…
Chẳng ai muốn bỏ đất nước mình, nhưng đành phải chạy.
Đó là một nghịch lý: “giải phóng” một đất nước có nghĩa là xua đuổi người ta chạy trốn khỏi đất nước mình!
Sự yên lặng của cát bụi.
Trong nghiệt ngã lịch sử, người lính cộng hòa cũng là một nghịch lý.
Ta làm thơ gửi thằng cầm súng
hơn triệu thằng bỏ súng đi đâu
đưa đến quê người đời lận đận
ta quê nhà nhức vết thương sâu
Đó là bốn câu thơ của Khoa Hữu, người lính, người thơ. Trong số rất nhiều thơ của Khoa Hữu đăng rải rác ở nhiều tạp chí văn học hải ngoại, tôi nhớ nhất là bài “Sự im lặng của cát bụi”. Nó buồn. Nó đau. Nó lính. Rất lính. Nó chứa chất một nỗi bi phẫn mà chỉ những người đã từng gắn bó cách này hay cách khác với một chế độ – dù còn bất toàn, nhưng đáng yêu – như chúng tôi, mới thấy thấm thía. Bài thơ khá dài, đến 27 đoạn. Xin trích lại một số đoạn:
(…)
Tháng hạ trong thịt xương ngấm độc
bước hưng vong điểm mặt da vàng
lại một nửa lưu tù rừng bắc
nửa còn theo sóng vượt biển nam
Dọc mùa thu oan hồn xác lá
tro bụi bay ám khói vừng trăng
đường tên mới, ta, người cũng lạ
lời dáo gươm dậy cõi đất bằng
(…)
chiếc nón sắt quên đời lăn lóc
lỗ đạn tròn khoét vết đau thương
người lính sau theo người lính trước
đất vô danh cây cỏ vô hồn
(…)
Pháo lấp Khe Sanh, cắt đường Chín
những hung tin không kịp báo về
gió Hạ Lào cuốn cờ tưởng niệm
đá Trường Sơn đứng sững như mê
(…)
Cây súng trận trả về hậu cứ
phòng xác Tổng Y Viện lạnh nằm
tấm ảnh bóc từ quân bạ cũ
dán lên tường hẹn chuyến lại thăm
Người đi tủi giấc mơ kinh sử
một hồn trăng treo bóng giang đầu
gió Sài Gòn tăng mùi thế sự
nửa đời ta đắm nước sông sâu
Ngày đi hiến máu cho An Lộc
lính cũ đâu còn, lính mới quen
vào đất chết buồn vui cũng hết
bước chân ta cày xới đất lên
Đàn quạ đói kêu trời độc địa
lũ chó hoang tha miếng mồi người
đứa chết ba ngày mắt vẫn mở
đứa sống ba tuần thịt đã ôi
(…)
Đất ấy của ta, ta còn hiểu
đồng đội của ta, ta còn đau
giấy mực đời chép ra, ví thiếu
lấy da này viết để tạ nhau…
Thấm thía vết thương!
Sau tháng 4/75, Khoa Hữu ở lại. Anh mất năm 2012.
Khoa Hữu nói về chiến tranh bằng cái ưu uất của một người bại trận: tan rã, mất mát, bi phẫn.
Lính, bên này hay bên kia, gánh chịu mọi oan khiên lịch sử.
Thắng, oan khiên là nỗi buồn cũ.
Bại, oan khiên thành oan trái mới.
Oan trái, một im lặng bất tuyệt!
Trần Doãn Nho
(4/2018- nhuận sắc 4/2023)