Trần Doãn Nho: Nhân chuyến “tự nguyện ra đi” của nhà văn Quỳnh Dao

Nữ sĩ Quỳnh Dao (20 tháng 4 năm 1938 – 4 tháng 12 năm 2024)

Nhà văn Quỳnh Dao (瓊瑤 = Chiung Yao) quyên sinh vào ngày 4/12/2024.

Trong lá thư vĩnh biệt, bà viết:

“Xin đừng khóc, đừng buồn, đừng thương tiếc gì cho tôi. Tôi đã “nhẹ nhàng ra đi” rồi.“Nhẹ nhàng ra đi” [幡然=phiên nhiên] [1] là nhóm chữ yêu thích của tôi. Nó biểu tượng cho một chuyến bay tự chủ, tự tại, tự do, bay lượn một cách thanh nhã và nhẹ nhàng. Tôi buông bỏ cái cơ thể đang càng ngày càng làm tôi đau đớn và hóa thành những bông tuyết nhẹ nhàng bay đi. Đây là nguyện vọng của tôi:Cái chết” là chuyến hành trình ai cũng phải trải qua và cũng là sự kiện lớn cuối cùng của mỗi người. Tôi không muốn giao nó cho số phận hay dần dần tàn úa. Tôi muốn làm chủ chương cuối cùng này của đời mình.” [2] (trích đoạn).

          Cung cách tự sắp xếp cái chết cho mình một cách cam đảm cùng với những dòng thư để lại của Quỳnh Dao, đã gây nên một ấn tượng mạnh mẽ đối với rất nhiều người, trong đó có tôi, mặc dầu thú thật, tôi chưa có dịp đọc qua một tác phẩm hay xem qua một phim truyện chuyển thể nào của bà. Thư của bà, thực ra, không nêu lên điều gì sâu sắc, cũng không đưa ra một nhận định triết lý để đời nào, nhưng lời lẽ đơn giản, xác quyết của nó cho ta thấy bà là người đã nghiền ngẫm rất sâu về lẽ tử sinh. Có lẽ nhờ đó, bà đã chuẩn bị cho chuyến đi chơi xa không hẹn ngày trở lại của mình một cách chu đáo, bình tĩnh, ung dung. Thực vô cùng hiếm hoi!

Nhân sự kiện “tự nguyện ra đi” độc đáo này, tôi lên mạng, tìm thấy khá nhiều tác phẩm của Quỳnh Dao được dịch ra tiếng Việt, đọc thoải mái, chẳng phải trả đồng xu nào. Tôi ngẫu nhiên chọn truyện “Bản tình ca muôn thuở” bản dịch của Liêu Quốc Nhĩ, đọc một hơi cho đến hết. Văn phong dễ đọc, dễ hiểu, đi rất sát với lòng mong đợi của độc giả, khiến ai cũng có thể thích thú tự đồng hóa mình với nhân vật trong truyện. Đúng là chuyện tình. Tình, tình, tình và tình. Cả bốn nhân vật chính (hai nữ: Miêu Quán Anh và Lý Liên Liên, hai nam: Trương Tú và Đỗ Vương Long) đều sống và chết trong tình, cùng tình, với tình, vì tình. Và cả bốn, dù phải trải qua bao nhiêu éo le, trắc trở cuộc đời, đều là những mẫu người hoàn hảo: chung thủy, trách nhiệm, hy sinh, cao thượng, trong sạch, ngay thẳng…Ngay hai tình địch trong tình yêu (Trương Tú và Đỗ Vương Long), rốt cuộc, cũng không còn là tình địch. Cả hai, người nào cũng đều sẵn sàng hy sinh, nhường người mình yêu là Miêu Quán Anh, cho bạn. Về phương diện lý thuyết văn học, đó là những nhân vật “phẳng” (flat characters). Khác với nhân vật “tròn” (round characters) là loại nhân vật được xây dựng bằng những nét phức tạp, đa diện, với cá tính luôn thay đổi, đưa đến những sự kiện bất ngờ, khó tiên đoán, thì nhân vật “phẳng” hoàn toàn ngược lại, là loại nhân vật đơn giản, một chiều với một số nét điển hình, ít chiều sâu, và thường không mấy thay đổi, hoặc chẳng hề thay đổi, trong suốt câu chuyện. Dưới ngòi bút của Quỳnh Dao, dường như “tình yêu thăng hoa mọi thứ,” nói theo Li Yuan (袁莉 = Lê Viên) trong bài viết trên The New York Times ngay sau khi bà vừa ra đi, “Quỳnh Dao, nhà văn ngôn tình hàng đầu trong thế giới Hoa ngữ, chết ở tuổi 86” (Chiung Yao, Top Romance Novelist in Chinese-Speaking World, Dies at 86) [3]. Li Yuan cho rằng, các chuyện tình yêu của bà thường rất kịch tính, đầy những cảnh éo le ngang trái với tất cả sắc thái của nó: đơn phương, ám ảnh, phẫn uất, bi thương; chúng biểu lộ ngay ở các tựa đề, chẳng hạn như “The Heart Has a Million Knots” (Tâm Hữu Thiên Thiên Kết) hay “Several Degrees of Sunset Red” (Kỷ Độ Tịch Dương Hồng). 

Đánh giá tổng quát về sự nghiệp văn chương Quỳnh Dao, Li Yuan viết: “Quỳnh Dao [Chiung Yao] được biết đến qua việc pha trộn những câu chuyện tình yêu của mình với các yếu tố văn học cổ điển Trung Quốc. Eileen Chow, một nhà nghiên cứu Hán học tại Đại học Duke, người lớn lên ở Đài Loan, phát biểu trong một cuộc phỏng vấn: ‘Chúng ta vẫn thường nghĩ là tất cả chúng ta đều học thơ từ nhà trường hay từ các bậc tiền bối. Thực tế là, rất nhiều người trong chúng ta học thơ từ Quỳnh Dao. Tôi cảm thấy như mình là một giáo sư thơ ca một cách nào đó là nhờ bà ấy.” (…) “Ở cả hai bờ eo biển Đài Loan, nhiều phụ nữ thích đặt cho mình những cái tên ‘kiểu Quỳnh Dao’ – nghĩa là giống tên với các nhân vật nữ trong tiểu thuyết của bà như các chữ “mộng” [dream], “vũ” [rain] và “vân” [cloud]. Bà thường viết về những người trẻ tuổi nổi loạn chống lại gia đình và các chuẩn mực xã hội. Đó là một lý do khiến tiểu thuyết của bà trở nên phổ biến tại Đài Loan trước khi chính quyền quốc gia [Quốc Dân Đảng] bãi bỏ thiết quân luật vào năm 1987, và tại Trung Quốc đại lục vào những năm 1980 và 1990, sau khi đất nước thoát khỏi Cách Mạng Văn Hóa.

Ngoài ra, theo Li Yuan, Quỳnh Dao cũng có viết một số tác phẩm đề cập đến các vấn đề xã hội, chẳng hạn như “Paradise on Fire” (煙火紅塵 = Yên hỏa hồng trần, tức “Khói lửa trần ai”) xuất bản năm 1984, kể về một cô gái mồ côi bị cha dượng lạm dụng và xâm hại tình dục. Theo Fang-mei Lin (芳玫林 = Phương Mai Lâm), giáo sư văn học tại Đại Học Sư Phạm Quốc Gia Đài Loan, người đã chọn Quỳnh Dao để viết luận án tiến sĩ của mình, “Mặc dù Quỳnh Dao bị giới trí thức chỉ trích vì những tiểu thuyết mộng mơ, lãng mạn của mình được cho là xa rời thực tế, nhưng những nỗ lực của bà nhằm đối mặt với bạo lực gia đình và xâm hại tình dục lại gặp phải sự thờ ơ từ một xã hội chưa sẵn sàng đối diện với những chủ đề nặng nề như vậy. Kết quả là, những tác phẩm này phần lớn bị bỏ qua.”

Riêng về người Việt, trong cũng như ngoài nước, hầu hết những bài tưởng niệm bà đều là những lời ngợi ca, hoặc về một khía cạnh văn chương nào đó của Quỳnh Dao hay về cách chọn lựa cái chết của bà. Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết ngắn này, thay vì trích dẫn ý kiến từ các bài viết đó, tôi chỉ xin ghi lại những “comment” bộc phát của một vài độc giả, tình cờ bắt gặp trên Facebook của người quen: Phannguyen Psg và Gió-O Hải Ngoại.

Alan Tran: “Thời trước 75, truyện của bà Quỳnh Dao (…) dành cho nữ sinh cuối cấp 2 và Tú Tài, tức lớp 11 bây giờ đọc. Các tiểu thư rớt tú tài 2, đọc truyện của bà trước khi lập gia đình. Cánh nam giới bè bạn tôi đọc Doãn Quốc Sỹ, Lê Tất Điều, Nguyễn Mạnh Côn, Y Uyên, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Thị Hoàng (…) Xin cám ơn bà, bà đã lấp cái khoảng trống về văn chương mảng tiểu thư mà bà Tùng Long chưa đáp ứng được. Biết bao tiểu thư này trở thành vợ của các sĩ quan VNCH nay đang định cư tại Mỹ.”

Huong Pham: Ngày xưa em không thích đọc truyện Quỳnh Dao vì thấy nó sến súa. Nhưng hôm nay đọc di chúc của bà, thấy yêu bà lắm lắm. Cầu mong bông tuyết Quỳnh Dao bay đi nhẹ nhàng, hết vướng bụi trần.”

Lê Thị Thấm Vân: “Bà này quyết định cái chết cho mình bảnh quá, mấy ai dám làm được. Em cúi đầu cảm phục.”

Nhất Nương: “Bà ngầu heng (…) Nhưng cái vụ tự kết liễu đời mình thì tui khoái nhen. (…) Chuyện dịch của Quỳnh Dao đi với nhạc Bolero ở Việt Nam thời ấy sao mà hợp.”

Các nhận xét trên, nhất là của Alan Tran, cho ta một cái nhìn thu gọn khá thú vị về lứa độc giả trẻ của thời kỳ 1965-1975 ở miền Nam. Vào thời đó, trong lúc đám nam thanh niên chúng tôi gần như đã ra khỏi ảnh hưởng của Phụ Nữ Diễn Đàn (trong đó có nhiều truyện của bà Tùng Long), tạp chí Phổ Thông (chủ trương: Nguyễn Vỹ, tác giả của bút ký nổi tiếng một thời “Tuấn, chàng trai nước Việt”), Văn Hóa Ngày Nay (chủ trương: Nhất Linh, xu hướng Tự Lực Văn Đoàn), và hầu hết đang đắm mình trong dòng văn chương đổi mới qua Sáng Tạo, Bách Khoa, Văn, Mai, Văn Học…, thì bỗng nhiên trên văn đàn xuất hiện truyện dịch Quỳnh Dao. Chỉ trong một thời gian ngắn, loại truyện này thu hút vô số độc giả trẻ, đặc biệt là các nữ sinh năm cuối trung học hoặc bắt đầu bước vào đại học, chưa có hoặc sắp lấy chồng. Các tác phẩm của bà, qua dịch giả Liêu Quốc Nhĩ, bán chạy như tôm tươi, tạo nên “hiện tượng truyện Quỳnh Dao”. Hiện tượng đó mạnh đến nỗi các nhà xuất bản vốn chỉ chú trọng tới những sáng tác mang tính văn học, nghệ thuật cũng phải quay xe, chạy theo truyện dịch Quỳnh Dao. Ngay cả “Văn”, tờ tạp chí thuộc loại văn chương đổi mới, cũng phải dành một số báo chủ đề “Hiện tượng sách dịch” (Giai phẩm Văn số 16, phát hành ngày 8/6/1973), trong đó, có bài phỏng vấn Liêu Quốc Nhĩ [4], dịch giả hàng đầu truyện Quỳnh Dao tại Sài Gòn, do nhà thơ Du Tử Lê thực hiện, về “Hiện tượng truyện Quỳnh Dao” vừa nói. 

Được hỏi ý kiến về giá trị văn chương của Quỳnh Dao, Liêu Quốc Nhĩ cho biết, “ở Trung Hoa, Quỳnh Dao không phải là nhà một văn lớn. Theo tôi, cô ta có lối viết “mềm,” dễ gây xúc động cho người đọc. Cô luôn cho tràn ngập trong truyện của cô tình thương giữa người với người… Tôi thấy cần phải nói ngay rằng, chúng ta không đòi hỏi hay chờ đợi giá trị văn chương cao trong truyện Quỳnh Dao. Là một dịch giả dịch nhiều nhất truyện Quỳnh Dao qua tiếng Việt, tôi có thể khẳng định, tiểu thuyết của cô, không có điều đó.”

Vậy tại sao lại Quỳnh Dao? Theo dịch giả này, đó là “một chuyện tự nhiên xảy ra theo chu kỳ nhu cầu của độc giả. Nhiều lúc đọc loại sách bắt trí óc làm việc nhiều quá như loại tư tưởng hay triết học cũng mệt mỏi. Do đó cũng cần có sách nhẹ nhàng để đọc. Hầu hết truyện của Quỳnh Dao là chuyện tình bối cảnh xã hội là bối cảnh của phương Ðông. Trong đó tư tưởng Ðông và Tây đang xung đột, rất gần gụi với cái không khí của xã hội ta.” Đọc Quỳnh Dao, “độc giả thường hòa mình vào đời sống của nhân vật. Họ vui với cái vui, cũng như buồn với cái buồn của nhân vật.” 

Nhận định này khiến tôi không khỏi liên tưởng đến Stephen King, nhà văn rất nổi tiếng Hoa Kỳ thuộc xu hướng “hư cấu phổ thông” (popular fiction). Theo nhận định của những học giả văn chương, thì “hư cấu phổ thông” là loại văn chương ngôn tình (hay diễm tình) thường lặp đi lặp lại đề tài, ý tưởng; chỉ tập trung vào cốt truyện (hấp dẫn, éo le, nhiều tình tiết lạ, gay cấn) hơn là đề tài, thuần túy chỉ để giết thì giờ. Trong lúc đó, “hư cấu văn chương” (literary fiction) để chỉ các tác phẩm có chiều sâu, đi sâu vào cá tính nhân vật, vào các trạng huống tâm lý phức tạp, các bi kịch xã hội, nhằm nêu bật lên thân phận con người. Dẫu vậy, so với các tác phẩm “hư cấu văn chương” của những Joyce Oates, Philip Roth, J. D. Salinger, hay những người đoạt giải Nobel văn chương như Earnest Hemingway, John Steinbeck và Toni Morrison, các tác phẩm “hư cấu phổ thông” của King hơn hẳn cả về số lượng tác phẩm, số lượng bán ra và tất nhiên, cả tài sản có được từ tiền bản quyền. Không những thế, vào năm 2003, ông còn được “National Book Foundation” (NBF), một tổ chức văn hóa phi-lợi-nhuận Hoa Kỳ, trao tặng huân chương vinh danh thành tích trọn đời (lifetime achievement) vì những “đóng góp xuất sắc” của ông vào nền văn chương Hoa Kỳ.

Trong bài diễn văn đọc tại buổi lễ nhận huân chương này, King thừa nhận rằng, không phải tất cả trong hàng chục tác phẩm của ông – hầu hết là “best sellers” – đều là văn chương. Theo ông, một số là để giải trí, nhưng có một số là văn chương. “Nhưng không nên bắt tôi phải định nghĩa văn chương là gì,” ông nói. Đối với những số người cho rằng ông không xứng đáng nhận giải thưởng văn chương trọn đời này – giải mà những nhà văn tầm cỡ thế giới như Philip Roth và Arthur Miller đã từng nhận trước đây-, ông chẳng xem đó là điều quan trọng. Tuy nhiên, King thúc giục ban điều hành giải hãy tiếp tục cố gắng bắt một nhịp cầu giữa cái gọi là truyện “hư cấu bình dân” và cái gọi là truyện “hư cấu văn chương.” Ông còn kêu gọi mọi người hãy đọc truyện bình dân để tiến tới xóa bỏ ranh giới giữa hai loại tiểu thuyết. [5]

Xem ra, hiện tượng King ở Hoa Kỳ chẳng khác gì hiện tượng Quỳnh Dao ở Á Châu!

Hồi ký Quỳnh Dao (Hình: Internet)

Quỳnh Dao suy nghĩ như thế nào về hai xu hướng hay đúng hơn, hai cung cách viết văn, này? Tôi không biết bà có viết một tiểu luận nào đề cập một cách rõ ràng đến đề tài này không. Tuy nhiên, tình cờ, tôi có dịp đọc được trên mạng hồi ký “Chuyện đời tôi”[6] của Quỳnh Dao. Giữa những trang sách kể đủ thứ chuyện đời lỉnh kỉnh của bà từ thời thơ ấu, tôi tìm thấy rải rác đó đây là những sự kiện hay những suy nghĩ riêng tư cho thấy một cách khá cụ thể hai quan niệm khác biệt về văn chương giữa bà và người chồng đầu tiên là Khánh Quân (慶鈞). [7] Sự khác biệt này dần dần đưa đến những xung đột gay gắt và chua chát, là yếu tố chính tạo nên sự đổ vỡ của cuộc hôn nhân, đồng thời cũng là nguyên nhân đưa đến cuộc hôn nhân thứ hai đầy tai tiếng của bà với Bình Hâm Đào (平鑫濤=Ping Hsin-tao).  Sau đây là vài trích đoạn liên hệ.

Sau khi trở về bên tôi, Khánh Quân càng say mê viết văn hơn. Một năm ở nước ngoài, anh có nhiều rung cảm, lại càng muốn viết một số tác phẩm có chiều sâu và đầy ý nghĩa. Cái “sứ mạng” ấy nung nấu anh đến khổ sở. Khi anh đang “nung nấu” thì tôi lại không làm sao chia sẻ bớt nỗi phiền muộn của anh, cũng không làm sao xâm nhập vào thế giới của riêng anh. Tôi bận con cái, bận gia đình, bận sáng tác, không một giây ngơi nghỉ. Cái tôi có thể làm được là ẵm con đi dạo chơi tha thẩn trên bãi cỏ ngoài nhà để cho màng nhĩ anh yên tĩnh, tranh thủ từng phút thời gian ngồi viết. Tôi và con chơi ở bên ngoài những hai giờ đồng hồ, trở vào nhà, bản thảo trên bàn anh giấy trắng vẫn hoàn giấy trắng, còn bản thảo đã viết đều nằm trong sọt giấy. Anh ngồi đó, tóc tai bù xù, mắt mơ màng. Cũng trong thời gian ấy, tôi viết được bao nhiêu truyện vừa, gửi cho [nhà xuất bản] Hoàng Quán và đều được đăng ngay.”

Sau khi nhận được thư khen của giám đốc nhà xuất bản Hoàng Quán là Bình Hàm Đào[8], bà viết:

Tôi đem thư cho Khánh Quân xem, mà lòng khấp khởi. Không ngờ, đọc thư xong, Khánh Quân buồn rười rượi, chỉ vì anh thường nhận xét truyện tôi viết không có “chiều sâu”. Những tác phẩm không có chiều sâu như thế, tại sao lại có người đặt bài? Tức thì, anh tìm đọc lại hết những truyện của tôi đã được đăng. Đọc xong, anh vứt tạp chí lên bàn, buông một câu:

Chẳng qua em đang làm cái việc kể chuyện đấy thôi.

Vâng. Em công nhận – thì em đang kể chuyện đấy.

Cả đến câu chuyện em kể cũng nhạt nhẽo. – Anh lại phê bình –

Vâng. Em vẫn thừa nhận thế. Nhưng em sẽ tiến bộ dần dần.

Nếu cả ngày em chỉ viết những thứ không có chiều sâu này, thì cả đời em cũng không tiến bộ được. – Anh ấy nói hàm hồ – Nếu như em chưa gì đã tự mãn thì sẽ hỏng hết.  Rồi em sẽ rơi vào cái vòng lẩn quẩn thường tình, không làm sao thoát ra được.

Tôi bị chạm tự ái, ngước đầu nhìn anh, nói dỗi:

Thì anh cứ lo viết những tác phẩm bất hủ nổi danh, lưu truyền hậu thế của anh đi, để tôi viết những câu chuyện không có chiều sâu của tôi. Tôi chỉ muốn kể chuyện, chỉ thích kể chuyện. Tôi bất tài, thiếu học. Viết được, có chỗ đăng là tôi thấy thỏa mãn rồi.

Khánh Quân nhìn tôi giận dữ. Suốt đêm anh ngồi trước bàn suy gẫm, thỉnh thoảng viết rồi lại xé. 

(…) Ngày ngày tôi cứ phải dắt nó [đứa con của hai người], rã cả chân tay, còn phải tranh thủ từng giây từng phút để viết một chút gì. Bây giờ thì hầu hết những tác phẩm tôi viết ra đều được đăng. (…) Cứ mỗi tháng chịu khó “cày xới” như vậy, tiền nhuận bút cũng khấm khá. Đó là niềm cổ vũ rất lớn đối với công việc viết lách của tôi và trang trải đời sống gia đình. Tôi say sưa viết, hầu như không hề ngơi nghỉ.” 

(…) Cuối cùng, tôi quyết tâm viết “Ngoài cửa sổ” [Song ngoại] đó là câu chuyện của chính bản thân tôi, đó là mối tình đầu của tôi, cuộc tình duyên từ đầu đến cuối rung động lòng tôi. Tôi đã tỉnh ngộ, bộ tiểu thuyết dài đầu tay, nhất định tôi phải viết về câu chuyện mà tôi thuộc nhất, đó là chuyện đời tôi. Khi viết “Ngoài cửa sổ”, tôi cẩn thận vô cùng. Tôi không dám để Khánh Quân xem bản thảo, sợ anh nhắc lại quá khứ của tôi, rồi sinh chuyện cãi vã nhau. Cho nên tôi chỉ viết khi nào anh đi làm.” 

(…) Dạo ấy, Khánh Quân đang có chuyện buồn, đầy dẫy bất mãn với cuộc sống hiện tại, lại đang bất lực trước tiền đồ của bản thân. Thấy tôi viết say mê, lại được đăng bài liên tục, anh càng thấy bứt rứt, khó chịu.”

Một thời gian sau khi xuất bản “Ngoài cửa sổ”, đọc được bài viết của Khánh Quân phê phán truyện này đăng trên báo, Quỳnh Dao viết: 

Đọc thật kỹ bài viết, thì ra nói về tôi, anh dựng đứng lên rất nhiều sự việc, chửi tôi một trận nên thân. (…) Sau khi xuất bản sách, tôi cũng không lường đoán hết nỗi chán chường trước thất bại của anh lên đến mức này.” [9]

Quỳnh Dao nhận xét:

Hai vợ chồng cùng nghề nghiệp, trong tận cùng ý thức, thường hay có sự cạnh tranh. Khánh Quân tốt nghiệp hệ ngoại văn Đại Học Đài Bắc, học hành bài bản, anh tự cho mình mạnh hơn tôi, nhưng bây giờ lại là người bị ngã ngựa, viết dù hay đến mấy cũng chỉ có mỗi mình xem, tự thưởng thức lấy. Anh cứ ngộ nhận đến mù quáng. Anh không sao giấu được sự đau khổ khi đứng trước mặt tôi, càng không cảm thấy vinh dự vì tôi.” [10]

Tóm lại, tuy chỉ dẫn ra sự kiện, nhưng các chi tiết được nêu trong hồi ký cho thấy quan niệm văn chương của Quỳnh Dao kể cũng đã khá rõ ràng, chẳng cần phải phân tích hay lý giải gì thêm! Mặt khác, chúng cũng đồng thời cho thấy sự khác biệt về chuyện viết lách trong văn chương, đôi khi không những chỉ xuất phát từ một quan niệm có sẵn nào đó, mà còn thoát thai từ những yếu tố cụ thể diễn ra trong đời sống hàng ngày.

Dù thích hay không thích văn chương Quỳnh Dao, tôi nhận thấy đây là một tập hồi ký đáng đọc. Nhiều chi tiết bà nêu lên về chuyện viết lách khá gần gũi với kinh nghiệm của một số nhà văn miền Nam chuyên viết “feuilleton” cho các nhật báo, trước năm 1975. Có thể nói “Chuyện đời tôi” cũng là một “truyện Quỳnh Dao” thứ thiệt và có lẽ cũng là một trong những truyện “hay nhất” của Quỳnh Dao, theo ức đoán chủ quan của tôi. Mặt khác, nó gợi lên trong mỗi người, nhất là những nhà văn – dù thuộc xu hướng văn chương nào – những bài học đáng suy gẫm.

                 

Quỳnh Dao, là bút danh của Trần Triết (陳喆), sinh ngày 20 tháng 4 năm 1938 tại Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung Quốc, sau theo gia đình chuyển qua định cư ở Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc) năm 1949. Bà bắt đầu viết văn từ năm 17 tuổi và cho đến cuối đời, bà đã xuất bản hơn 60 tác phẩm gồm hàng chục truyện dài và nhiều tuyển tập truyện ngắn, trong đó có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng, tiêu biểu như Song Ngoại (Ngoài Song Cửa), Thái Vân Phi (Mùa Thu Lá Bay), Hoàn Châu Cách Cách (Hoàn Châu Cô Nương), Yên Vũ Mông Mông (Dòng Sông Ly Biệt), Đinh Viện Thâm Thâm (Vườn Rộng Sân Sâu, tức Xóm Vắng), Kỷ Độ Tịch Dương Hồng (Mấy Độ Ánh Chiều Hồng), Hải Âu Phi Xứ, Hàn Yên Thúy (Bên Bờ Quạnh Hiu), Tố Ty Hoa (Cánh Hoa Chùm Gửi), vân vân. 

Trần Doãn Nho 

(Viết: 13/12/24; nhuận sắc và bổ sung: 25/12/2024)

—————-

Chú thích:

[1] 翩然 (phiên nhiên): 

  • Bay đi, nhanh nhẹ, tiêu sái, tự tại.  Xem:  Tra từ: 翩然 – Từ điển Hán Nôm
  • Mang ý nghĩa nhẹ nhàng, thanh thoát, thường mô tả sự di chuyển hoặc rời đi với dáng vẻ uyển chuyển, thanh lịch. Xem: ChatGPT

[2] Nguyên văn chữ Hán:

不要哭,不要伤心,不要为我难过。我已经「翩然」的去了! [翩然]是我最喜欢的两个字, 代表的是「自主、自在、自由」的「飞翔],优美而 轻盈,我摆脱了逐渐让我痛苦的躯壳,「翩然」的化为雪花飞去了!这是我的愿望「死亡」是每个人必经之路,也是最后一件「大事」。
我不想听天由命,不想慢慢枯萎凋零. 我想为这最后的大事「作主」.

Xem: https://www.163.com/dy/article/JIQ93SF20516DPPV.html

ChatGPT dịch âm và dịch nghĩa:

Âm Hán Việt: Bất yếu khốc, bất yếu thương tâm, bất yếu vi ngã nan quá. Ngã dĩ kinh “Phiên nhiên” đích khứ liễu! “Phiên nhiên” thị ngã tối hỉ hoan đích lưỡng cá tự, đại biểu đích thị “Tự chủ, tự tại, tự do” đích “Phi tường”, ưu mỹ nhi khinh doanh, ngã bài thoát liễu trục tiệm nhượng ngã thống khổ đích khu xác, “Phiên nhiên” đích hóa vi tuyết hoa phi khứ liễu! Đây thị ngã đích nguyện vọng: “Tử vong” thị mỗi cá nhân tất kinh chi lộ, dã thị tối hậu nhất kiện “đại sự”. Ngã bất tưởng thính thiên do mệnh, bất tưởng mạn mạn khô úa điêu linh. Ngã tưởng vị giá tối hậu đích đại sự “tác chủ”. 

Dịch nghĩa: “Đừng khóc, đừng đau lòng, đừng buồn vì tôi. Tôi đã ‘phiên nhiên’ mà rời đi! ‘Phiên nhiên’ là hai chữ tôi thích nhất, đại diện cho sự ‘tự chủ, tự tại, tự do’ trong việc ‘bay lượn,’ đẹp đẽ và nhẹ nhàng. Tôi đã thoát khỏi thể xác dần khiến tôi đau khổ, ‘phiên nhiên’ hóa thành bông tuyết bay đi mất!”Đây là nguyện vọng của tôi: “Cái chết” là con đường mà mỗi người đều phải trải qua, cũng là sự kiện lớn cuối cùng trong cuộc đời. Tôi không muốn phó mặc cho số phận, không muốn chậm rãi héo mòn rồi lụi tàn. Tôi muốn làm chủ sự kiện lớn cuối cùng này.

[3] Li Yuan, Chiung Yao, Top Romance Novelist in Chinese-Speaking World, Dies at 86, New York Time December 8, 2024.

Chiung Yao, Top Romance Novelist in Chinese-Speaking World, Dies at 86 – The New York Times

[4] Du Tử Lê, Một giờ nói chuyện với dịch giả Lưu Quốc Nhĩ (2 kỳ)

https://dutule.com/a3835/mot-gio-noi-chuyen-voi-dich-gia-lieu-quoc-nhi-ky-1-

https://dutule.com/p133a3843/mot-gio-noi-chuyen-voi-dich-gia-lieu-quoc-nhi-ky-2-

[5] Xem:

  • Dave Astor: Literary Fiction vs. Popular Fiction: a Big or Not-So-Big Divide?

Literary Fiction vs. Popular Fiction: a Big or Not-So-Big Divide? | Dave Astor on Literature

  • Stephen King Accepts the 2003 Medal for Distinguished Contribution to American Letters

Stephen King Accepts the 2003 Medal for Distinguished Contribution to American Letters – National Book Foundation

[6] Quỳnh Dao, “Chuyện đời tôi” (我的故事= Ngã đích cố sự), do nhà xuất bản Văn Nghệ (VN) phát hành. Xem: https://thuviensohoa.vn/pdf/viewer.php?id=322d2e

[7] Quỳnh Dao cho biết, Khánh Quân là tên hư cấu (trang 138). Tên thật của người chồng đầu tiên này là Mã Sâm Khánh (馬森慶 = Ma Sen-ching) 

[8] Bình Hàm Đào, tên nhân vật trong hồi ký (bản dịch), chính là Bình Hâm Đào, chồng thứ hai của Quỳnh Dao.

[9] Quỳnh Dao, “Chuyện đời tôi” (từ trang 163 đến 177 và 186). 

[10] Trang 186.