Trần Doãn Nho: Từ Coronavirus Đến “Dịch Hạch” Của Albert Camus
Siêu vi: một nghịch lý
Một tấm hình đẹp của siêu vi coronavirus (COVID-19).
Cái đẹp chết người!
Siêu vi, dịch từ chữ “virus”, có gốc la-tinh là “poison” (chất độc), tuy là một thực thể lan truyền rất nhanh và gây bệnh cho sinh vật nhưng điều lý thú (và khôi hài) là nó lại không được xem là sinh vật (living creature). Vì sao? Nó có mặt hàng tỷ năm trên trái đất với một cách tồn tại nghịch lý: sinh sôi nẩy nở không ngừng, nhưng không hề “sống” (alive), một loại “xác chết cử động” (zombie). Chẳng thế mà nó đã trở thành một đề tài tranh cãi không ngừng kể từ lúc được khám phá vào cuối thế kỷ thứ 19: sinh vật (living) hay phi-sinh-vật (non-living)?
Để là sinh vật, theo các nhà sinh vật học, một thực thể phải có ba yếu tố:
- Có một bộ máy sinh học riêng để tái sản xuất.
- Sinh sôi nẩy nở xuyên qua sự phân chia tế bào.
- Có hiện tượng trao đổi chất (metabolism).
Siêu vi hoàn toàn không có ba đặc tính trên. Hoạt động của nó rất đơn giản: tước đoạt “trang thiết bị” của tế bào chủ và sử dụng nó để sao chép mã di truyền của chính mình và tạo ra những siêu vi mới. Nói một cách lý thuyết, một siêu vi có thể trôi giạt một cách vô định đâu đó cho đến khi nó gặp một tế bào, bám vào, rồi “nhiễm độc” tế bào đó, tạo ra nhiều bản sao của chính nó và phát tán đi khắp nơi. Và cứ thế, siêu vi tự tồn tại mà chẳng cần cái gì cả. Đó là một mặt.
Nhưng mặt khác, siêu vi trực tiếp trao đổi thông tin di truyền với sinh vật, và có sinh sản, tức là phải nằm trong mạng lưới đời sống. Như thế, theo Gary Whittaker, giáo sư siêu vi học tại Cornell University, siêu vi nằm giữa sinh vật và phi sinh vật, giữa hóa học (chemistry) và sinh học (biology), nghĩa là, giữa “sống” và “không sống”.
Vậy siêu vi có tiến hóa không? Đây cũng là đề tài tranh cãi.
Theo Charles Darwin, “các nguyên tắc chính yếu trong lý thuyết ‘biến thể di truyền xuống thế hệ tương lai’ nói chung là:
- Sự biến thể xảy ra thường xuyên trong thiên nhiên giữa thế hệ cha mẹ và con cháu.
- Mọi sinh vật trong một môi trường sống đều tranh đấu không ngừng để sinh tồn.
- Sự tranh đấu để sống còn dẫn đến sự chọn lọc tự nhiên: chỉ có những biến thể có ích lợi sẽ được bảo tồn và di truyền xuống các thế hệ tương lai.
- Những biến thể này tích tụ chồng chất dần dần tạo ra những chủng loại mới. Những chủng loại mới này càng lúc càng tiến hóa phức tạp và thích ứng hơn với môi trường sống của chúng.”(1)
Một số nhà sinh vật học cho rằng, dù chỉ là những “gien” (gene) phiêu dạt của tế bào chủ, suy đồi thành vật ký sinh qua hàng tỷ năm, nhưng sự tồn tại và phát triển vô cùng nhanh chóng của rất nhiều loại khác nhau, siêu vi là nguồn suối hàng đầu của sự đổi mới “gien” di truyền – nghĩa là chúng luôn luôn “phát minh” ra những “gien” mới
– khiến cho họ không thể phủ nhận vai trò của siêu vi trong sự tiến hóa. Tuy nhiên, do siêu vi không hẳn là sinh vật, cho nên, đối với hầu hết các nhà sinh vật học, siêu vi không đáng được xem xét một cách nghiêm túc dưới lý thuyết tiến hóa. Rốt cuộc, họ đành phải xếp chúng vào loại “có ảnh hưởng vào sự tiến hóa” (như khí hậu chẳng hạn) mà thôi.
Đúng là lắm chuyện! Sinh vật hay không-sinh-vật, tiến hóa hay không tiến hóa thì đã sao?! Siêu vi vẫn cứ là siêu vi. Các “xác chết cử động” này vẫn tiếp tục làm phiền nhân loại; lần này, bằng một chủng loại mới kinh hoàng: coronavirus.
- Nguyễn Nhân Trí, “Lược thuật và luận giảng tác phẩm nguồn gốc chủng loại” của Darwin, phần “Tóm lược và kết luận.” https://damau.org/50867/luoc-thuat-va-luan-giang-tac-pham-nguon- goc-chung-loai-chuong-14
Coronavirus, kích thước rất nhỏ, nhỏ hơn những vi khuẩn nhỏ nhất, cỡ bằng một phần ngàn (1/1000) bề dày của sợi lông mi, là một bộ “gien” (gene) chứa thông tin di truyền, bên ngoài là một vỏ chất đạm (protein) gồm những gai có dạng bông (spike proteins = protein gai) nhô lên trên một màng nhầy bọc quanh một cái lõi tròn. Theo Jan Carette, giáo sư vi sinh học và miễn dịch học tại đại học Y Khoa Stanford, khi còn ở bên ngoài, các coronavirus nằm bất động một thời gian nào đó trong trạng thái “không sống”. Không có một quá trình sinh học nào diễn ra bên trong “cơ thể” của chúng: không vận động, không trao đổi chất dinh dưỡng, không bài tiết chất thải, vân vân. Các nghiên cứu cho thấy mặc dù bị suy đồi trong vòng vài phút cho đến một vài giờ khi nằm chơi vơi ở ngoài, một số phần tử của chúng có thể sống còn trên bề mặt các tấm cạc tông đến 24 tiếng, trên bề mặt các tấm plastic và đồ kim loại đến ba ngày, để…chờ dịp. Khi tiếp xúc được với những tế bào vật chủ (host’s cells), chúng sử dụng ngay các gai có dạng bông trên vỏ ngoài của chúng như những cái “chân”, móc vào các tế bào đó, mở khóa và đột nhập vào bên trong. Các chất đạm trương nở từ trong ra ngoài, đưa đến sự sát nhập giữa siêu vi và tế bào vật chủ, cho phép siêu vi phóng thích và sao chép mã di truyền của chính mình, chiếm đoạt hẳn bộ máy hoạt động bên trong của tế bào. Sau đó, chúng vứt bỏ lớp khoác ngoài, chuyển tế bào thành một nhà máy, bắt đầu sản sinh ra triệu triệu phiên bản của chính nó. Đó là những siêu vi mới, sẵn sàng lây lan khắp nơi.
Coronavirus rất “tài năng”: bám vào nơi dễ bám nhất ở trên cơ thể mà chủ nhân không hề nhận biết, vì chẳng gây ra triệu chứng gì hết. Đến khi những triệu chứng đầu tiên xuất hiện và được nhận biết thì chúng đã truyền phiên bản của chúng khắp nơi trong cơ thể rồi và bắt đầu chuyển sang người kế tiếp qua các tiếp xúc thông thường trong cuộc sống hàng ngày. Chúng “ranh ma” và “xảo quyệt” (hơn các siêu vi đàn anh như SARS chẳng hạn): ở người này thì chúng gây nên chết chóc vì chúng trú ẩn sâu trong phổi, phá hỏng hoạt động hô hấp; nhưng ở người khác thì chỉ tạo nên những triệu chứng nhẹ vì chúng nằm ở phần trên của hệ thống hô hấp như mũi, cổ họng, nơi dễ lây lan sang người khác. Chúng giấu kỹ khả năng gây chết người của chúng đủ để tạo thành cơn đại dịch, trước khi con người tìm ra cách chặn đứng. Nhờ sự đánh lừa tinh vi đó mà chỉ trong vài tháng, chúng đã có mặt khắp hành tinh, thay đổi hẳn mọi mặt hoạt động của con người.
Tóm lại, siêu vi nói chung và coronavirus nói riêng, hoạt động xuyên qua cơ thể chúng ta. Vì không có bộ máy riêng của chúng như tế bào, nên chúng tồn tại bằng cách đan bện vào và hóa thân thành các tế bào trong cơ thể con người. Chất đạm của chúng cũng là chất đạm của cơ thể. Nhược điểm của chúng cũng là nhược điểm của cơ thể. Và vì thế, thuốc dùng để hại chúng thì đồng thời cũng hại chính cơ thể. Đó là vấn đề nan giải trong nỗ lực đối phó với cơn dịch coronavirus hiện nay.
Nhân loại đành chịu thua chăng? Chắc chắn là không. Hiện nay các nhà khoa học đang chạy đua với thời gian để tìm ra cách trị loại siêu vi ngổ ngáo này, chặn đứng tầm lây lan của nó. Trong cơn khủng hoảng, nhà siêu vi học Karla Kirkegaard (đại học Stanford)(2) đưa ra một cái nhìn lạc quan, đúng hơn, đó là một hy vọng. Hy vọng này không nằm ở đâu xa mà trong chính con siêu vi. Tại sao? Theo bà, dù mang trong nó một tài năng quỷ quái và hiệu quả trong việc lây lan chết người, “loại siêu vi này thực sự không
- Dẫn theo Sarah Kaplan, William Wan and Joel Achenbach, The Coro- navirus Isn’t Alive. That’s Why It’s so Hard to Kill, https://www.washingtonpost.com/health/2020/03/23/coronavirus-isnt- alive-thats-why-its-so-hard-kill/
muốn giết hết chúng ta. Vì nếu chúng ta được hoàn toàn khỏe mạnh thì có lợi cho chúng và cho dân số của chúng hơn.” Nói theo lẽ tiến hóa, nếu mục đích cuối cùng của siêu vi là lây lan thì đồng thời chúng cũng phải nhẹ tay với tế bào chủ của nó, bớt đi hành vi chiếm đoạt có tính phá hoại mà thay vào đó, đóng vai trò của một người khách lịch sự khi trú ẩn ở trong cơ thể con người.
Xuyên qua cái nhìn này, thì coronavirus hiện nay đang ở chặng đầu trong cuộc xâm lăng của chúng: sao chép và phát triển bằng quá trình phá hủy cái mà chúng cần là cơ thể con người. Nếu cứ tiếp tục như thế thì có nghĩa là đến một lúc nào đó, chúng cũng sẽ phải bị tiêu diệt vì mất đi môi trường tồn tại. Đó là lý do đã khiến các siêu vi SARS và Ebola đi đến chỗ tự tiêu hủy trước đây. Để tránh tình huống này, cách tốt nhất giúp coronavirus tiếp tục sống còn là: ngừng tiêu diệt các tế bào chủ. Dần dà, theo thời gian, mã di truyền của chúng sẽ thay đổi. Cho đến một lúc nào đó, chúng sẽ trở lại hàng năm và mang lại cho con người một cơn cảm lạnh bình thường mà thôi.
Một lạc quan đầy…thụ động!
Dịch hạch
Trong cơn sốt ruột trước sự hoành hành của dịch coronavirus, tôi tìm đến một cơn đại dịch hư cấu, nhưng không kém hiện thực, tiểu thuyết “La Peste” (Dịch hạch)(3)
- Albert Camus, La Peste, Les Éditions Gallimard, 347e édition 1947. Xem bản điện tử PDF của trang mạng Bouquineux.com: http://www.bouquineux.com/?telecharger=381&Camus-La_Peste
hay trang mạng Anthropomado:
https://www.anthropomada.com/bibliotheque/CAMUS-La-peste.pdf
của Albert Camus (1913-1960),(4) một trong những nhà văn hàng đầu của Pháp, giải Nobel văn chương năm 1956. Phiên bản tiếng Anh của nó, The Plague, do nhà xuất bản Penguin tái bản đã bán sạch chỉ trong một thời gian ngắn trên Amazon vào cuối tháng 2/2020.
Khác với đại dịch coronavirus, dịch hạch là do vi khuẩn tạo ra, trước hết, trong con chuột, sau đó lây lan sang người. Bối cảnh của câu chuyện xảy ra ở Oran, một thành phố của Algeria, thuộc địa Pháp, vào đầu thập niên 1940. Vào tháng Tư năm đó, đột nhiên, người ta thấy có những con chuột chết rải rác đó đây trong thành phố, lúc đầu chỉ một, hai con rồi dần dà, mỗi ngày mỗi nhiều. Chẳng mấy ai lưu tâm, đã thế, có người còn xem đó là một trò chơi khăm, kể cả bác sĩ Bernard Rieux, nhân vật chính của câu chuyện. Nhưng khi người gác cổng bệnh viện, nơi ông làm việc, đột ngột đau và chết với một cơn sốt lạ thường, thì Rieux biết rằng thành phố đang có bệnh dịch hạch. Không ai tin. Phải một thời gian sau, khi cơn dịch đã trở nên trầm trọng với nhiều bằng chứng không thể phủ nhận, lúc bấy giờ, nhà cầm quyền mới bắt đầu ra lệnh đặt toàn thành phố dưới sự cách ly để kiểm dịch. Từ đó, mọi cửa ra vào thành phố bị đóng chặt, nội bất xuất ngoại bất nhập. Mọi người được lệnh phải ở trong nhà, chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt. Ngay cả người chết cũng phải có nhân viên hữu trách giám sát. Mọi dịch vụ công cộng ngưng trệ, ngay cả các trạm thư tín cũng đóng cửa vì sợ lây lan. Nếu có gặp nhau đâu đó, người ta quay lưng lại với nhau, tránh mọi tiếp xúc, đụng chạm. Dân thành phố sống những ngày vô mục đích, chán nản, tuyệt vọng; một số người hoảng loạn, sinh ra làm càn.
“Vào thời kỳ này, thời gian như ngừng hẳn lại (…) Chỉ trong vòng bốn ngày, cơn sốt tạo ra bốn bước nhảy
- Albert Camus, nhà văn Pháp, sinh năm 1913, Nobel văn chương năm 1957, mất năm 1960 trong một tai nạn xe hơi.
kinh hoàng: mười sáu người chết, hai mươi bốn, hai mươi tám và ba mươi hai. Đến ngày thứ tư, người ta thông báo việc mở bệnh viện phụ trong một trường mẫu giáo. Đồng bào chúng tôi vốn vẫn ngụy trang nỗi lo âu của mình dưới những lời bông đùa, giờ đây, tỏ ra chán nản hơn và lặng lẽ hơn.”(5)
Dân thành phố cảm thấy đột nhiên bị nhốt vào trong tù với nỗi đau khổ vì xa cách bạn bè, người thân. “Một trong những hậu quả đáng kể nhất của việc đóng cửa thành phố là sự chia cách bỗng nhiên rơi vào những con người không hề được chuẩn bị.”(6)
Kẻ ở lại thoát ra ngoài thành phố không được mà những người đi xa cũng chẳng thể nào về. Không ai có thể cứu giúp ai, không ai làm gì được cho ai. Những chữ vốn vẫn thường được dùng một cách bình thường như “dàn xếp” (transiger), “ân huệ” (faveur) hay “ngoại lệ” (exception) bỗng trở thành vô nghĩa. Giữa không khí chết chóc và tuyệt vọng đó, trong lúc chính quyền thành phố không đảm đương nổi vì quá tải, bác sĩ Bernard Rieux, dù có vợ ốm đau được gửi đi dưỡng bệnh ở một thành phố khác từ trước đó, bất chấp mối hiểm nguy lây bệnh, đứng ra tổ chức cuộc chiến đấu chống cơn dịch bệnh: lập ra những nhóm thiện nguyện, tự làm bệnh viện dã chiến, tự điều chế thuốc, làm vệ sinh thành phố, chuyên chở và chữa trị người bệnh, lo mai táng người chết, vân vân. Sự tận tụy của Rieux đã thuyết phục nhiều người khác cùng tình nguyện tham gia chống dịch.
Họ xuất thân từ nhiều hoàn cảnh, nghề nghiệp, cá tính và xu hướng rất khác nhau.
- Albert Camus, La Peste, tr. 75.
- Sđd, tr. 79.
Chẳng hạn ký giả trẻ Raymond Lambert. Anh đến từ Paris, bị kẹt vì lệnh phong tỏa, nên tìm mọi cách trốn thoát khỏi thành phố, kể cả bằng con đường đi chui, nhưng đến khi nguyện vọng được thỏa mãn thì anh ta thay đổi thái độ, tình nguyện ở lại.
Chẳng hạn cha Paneloux. Lúc đầu, vị linh mục dòng Tên này không tin ở công việc của bác sĩ Rieux. Vào lúc cao điểm của cơn dịch, khi có đến 500 người chết một tuần, ông vẫn giải thích với con chiên rằng cơn dịch là một cách Thượng Đế trừng phạt những kẻ có tội và khuyên họ chấp nhận sự trừng phạt đó, qua một bài thuyết giảng hùng hồn. Ông nói:
“Hỡi các anh chị em, cuối cùng, chính ở đây thể hiện lòng Chúa nhân từ, ngài đã mang vào mọi vật cái thiện và cái ác, sự giận dữ và lòng xót thương, bệnh dịch hạch và sự giải thoát. Chính cái tai họa đã làm các anh chị em tổn thương, nó nâng anh chị em lên và chỉ đường cho anh chị em.”(7)
Nhưng về sau, chứng kiến cái chết thương tâm của một đứa bé vô tội, cha Paneloux thay đổi hoàn toàn thái độ, tình nguyện vào nhóm thiện nguyện, cuối cùng, nhiễm bệnh và chết.
Rõ ràng là “Dịch hạch” mang rất nhiều nét khá tương tự với cơn đại dịch Coronavirus hiện nay. Tuy nhiên, tác phẩm không chỉ viết về một trận dịch như nó là, mà chứa đựng nhiều ẩn dụ: cuộc xâm lăng tàn bạo của chủ nghĩa Đức Quốc Xã trong thế chiến thứ 2, sự lan truyền độc hại của các ý thức hệ đối chọi nhau làm nhiễm độc xã hội. Nhưng sâu xa hơn hết, đó là ẩn dụ về con người như một thân phận. Con người, trong cái nhìn của Camus, là một cái gì mong manh, rất dễ tổn thương, có thể bị tiêu diệt bất
- Sđd, tr. 115
cứ lúc nào, bởi một thiên tai đột ngột xảy ra, hay bởi hành vi lầm lỗi của chính mình, hay thậm chí, bởi một thứ vô cùng nhỏ nhoi: con vi khuẩn. Nhưng dân thành phố Oran không thừa nhận điều này. Ngay việc sử dụng chữ “dịch hạch” để gọi cho đúng tên của cơn dịch mà người ta cũng không muốn chấp nhận. Rieux dứt khoát ngay từ đầu cơn dịch: nói gì thì nói, điều trước tiên là “Phải gọi căn bệnh này đúng như tên của nó,”(8) trước khi nói đến chuyện đối phó với nó.
Khi những dấu hiệu đầu tiên của cơn dịch xuất hiện, mọi người đều cho rằng đó là trách nhiệm của một ai đó, chẳng dính dáng gì đến mình. Thậm chí ngay cả khi chứng kiến một phần tư (1/4) cư dân lăn ra chết, những người còn sống vẫn tin rằng tai họa sẽ không xảy ra cho bản thân họ. Ai cũng muốn giữ cho mình sự bình an, không muốn thay đổi thói quen và những gì mình đang hưởng, nên chẳng hề quan tâm đến người khác, đến cộng đồng. Trong suốt cơn dịch, Camus nhấn mạnh đến thái độ hờ hững và phủ nhận hiện thực của cư dân Oran đối với tai họa như là một ẩn dụ siêu hình. Tai họa, theo ông, là của chung, nhưng không mấy ai chấp nhận nó. Họ cho nó là phi thực, là một cơn ác mộng sẽ chóng qua đi, cho đến khi nó rơi ngay trên đầu mình. Phải lâu lắm về sau, trải qua nhiều tháng sống như bị lưu đày, nhiều cư dân thành phố mới dần dà hiểu ra rằng tai ương không phải là của riêng ai, mà liên quan đến tất cả mọi người. Nỗi đau cơn dịch là nỗi đau chung cần được được chia sẻ, nên mọi người đành quên đi nỗi đau cá nhân và cùng tham gia vào công cuộc chiến đấu chống dịch.
Nhân vật chính, bác sĩ Rieux, làm việc hết mình để giảm bớt sự đau khổ ở chung quanh, trông giống như những anh hùng nào đó trong truyện cổ, thực ra, là hình ảnh khác
- Nguyên văn: Il faut appeler les choses par leur nom. Sđd, tr. 51.
của một nhân vật thần thoại Hy Lạp, Sisyphe, được Camus bàn đến trong tiểu luận “Le Mythe de Sisyphe”.(9) Sisyphe phạm tội, bị các thiên thần phạt phải làm một công việc vô cùng vô ích: lăn một tảng đá lên đỉnh núi, chờ cho nó rớt xuống, lại lăn lên, cứ như thế cho đến…vĩnh cửu. Thay vì than thở và nguyền rủa, Sisyphe quyết định sống hình phạt của mình một cách đầy ý thức. Hắn biến hình phạt thành sự chọn lựa, chọn lựa làm cái công việc hoàn toàn vô ích đó để làm chủ số mệnh của mình. Thái độ đó khiến Camus xem Sisyphe là “người anh hùng phi lý” (le héros absurde) trong chủ thuyết phi lý của mình, vốn đã được triển khai qua nhiều tác phẩm khác nhau của ông: L’Étranger (Người xa lạ), Caligula, Le Malentendu (Ngộ nhận).
Nói phi lý, nghe nó …phi lý, nghĩa là tiêu cực. Thực ra, theo Camus, phi lý ở đây không phải là cái gì vô lý. Phi lý chỉ một tình trạng như-nó-là, một cái gì có sẵn đó, không thể thay đổi. Khác với Jean-Paul Sartre quan niệm rằng tình trạng phi lý lệ thuộc vào một thế giới vắng mặt ý thức, Camus cho rằng phi lý là hậu quả trực tiếp của sự vắng mặt của Thượng Đế, hay nói cho đúng hơn, vắng mặt ý thức về Thượng Đế. Trong trường hợp Sisyphe, mà Camus sử dụng như một ẩn dụ, hình phạt mà hắn chịu đựng là sự đã rồi, là điều hiển nhiên. Nó không đúng hay sai, tốt hay xấu. Như cơn dịch hạch: nó đến là nó đến. Như cái chết của đứa bé: nhiễm bệnh là phải chết. Đẩy xa hơn, đã là con người thì phải chết, dù là chết bệnh, chết già, chết tai nạn hay chết bất đắc kỳ tử. Chết là chết. Không có một ý nghĩa duy lý hay đạo đức nào nằm đàng sau cơn dịch, đàng sau cái chết hay đàng sau hình phạt, nếu xem đó là một hình phạt. Tính
- Albert Camus, The Myth of Sisyphus and Other Essays, Justin O’Brien dịch, New York, Vintage Books, 1991. Xem bản điện tử: https://www2.hawaii.edu/~freeman/courses/phil360/16.%20Myth%20 of%20Sisyphus.pdf
cách độc đoán của cơn dịch đi song hành với tính phi lý của hiện hữu. Chỉ có một cách là chấp nhận cái phi lý một cách đầy ý thức, để tìm cách đối phó với nó, cách này hay cách khác. Theo Camus, phi lý không ở trong con người cũng không ở trong thế giới mà được sinh ra từ sự đụng độ giữa nhu cầu con người và sự im lặng phi lý của thế giới, tức là nằm trong sự cùng hiện diện của chúng. Con người sống một kinh nghiệm, một số phận, chính là chấp nhận hoàn toàn nó. “Sống, chính là là làm cho cuộc sống trở thành phi lý,”(10) theo Camus. Hiểu như thế, phi lý mang ý nghĩa tích cực.
Nhân vật Rieux sống với cái phi lý của cơn dịch, của số phận riêng của mình và của thành phố. Chính vì thế, ông chọn phải xa vợ (và sau này, khi hết dịch thì vợ chết), chọn ở lại chiến đấu chống cơn dịch như một bổn phận phải hoàn tất chứ không để trở thành anh hùng. Khi thảo luận về cha Paneloux và qua đó, về vai trò của Thượng Đế trong cơn dịch, Rieux phát biểu:
“…nhưng vì trật tự của thế giới được quy định bởi cái chết, nên có lẽ tốt hơn cho Thượng Đế là người ta không nên tin ở ngài mà phải nỗ lực hết mình chiến đấu chống lại cái chết, để khỏi mất công hướng lên trời [cầu nguyện] nơi mà ngài hoàn toàn im lặng.”(11)
Cơn dịch đưa đến đau khổ. Và giống như cơn dịch, đau khổ là đau khổ, chẳng cần nguyên nhân gì cả và chẳng cần biết là con người có thích hay không. “Đau khổ được phân chia một cách ngẫu nhiên, nó vô nghĩa, nó đơn giản là phi lý và đó là điều đáng nói nhất mà người ta có thể bàn
- Nguyên văn: Living is keeping the absurd alive (Nguyên văn tiếng Pháp: Vivre, c’est faire vivre l’absurde). Albert Camus, tài liệu đã dẫn, tr. 18.
- Albert Camus, sđd, tr. 149.
về nó,” theo Alain de Botton,(12) trong một tiểu luận viết về “Dịch hạch” của Albert Camus. Giải thích rõ hơn về điều này, Sean Illing, trong một tiểu luận khác cũng bàn về bài học mà Camus để lại qua tác phẩm này, viết, “Tất cả chúng ta đều bị giữ làm con tin bởi những điều chúng ta không hề kiểm soát.”(13)
Cuối cùng, sau hơn một năm, cơn dịch chấm dứt ở thành phố Oran. Cuộc sống trở lại bình thường. Dân thành phố hân hoan reo mừng. Nhưng Camus cảnh báo rằng như thế không có nghĩa là con người đã hết bị đe dọa. Kết thúc truyện, ông viết:
“…vi trùng dịch hạch không bao giờ chết cũng không bao giờ biến mất, nó có thể nằm ngủ yên hàng chục năm trong đồ đạc và quần áo, nó kiên nhẫn chờ đợi trong các phòng ốc, dưới tầng hầm, trong rương, trong những chiếc khăn tay và trong đống giấy má và có lẽ đến một ngày nào đó, vừa để gây tai họa cũng như để dạy bài học cho con người, cơn dịch hạch sẽ lại đánh thức đàn chuột của nó dậy và rồi gửi chúng ra nằm chết trong một thành phố đang tràn trề hạnh phúc nào đó.”(14)
*
- Alain de Botton, Albert Camus on the Coronavirus. https://www.nytimes.com/2020/03/19/opinion/sunday/coronavirus- camus-plague.html
- Sean Illing, This Time for Solidarity. https://www.vox.com/2020/3/13/21172237/coronavirus-covid-19-albert- camus-the-plague
- Nguyên văn: “Car il savait ce que cette foule en joie ignorait, et qu’on peut lire dans les livres, que le bacille de la peste ne meurt ni ne disparaît jamais, qu’il peut rester pendant des dizaines d’années endormi dans les meubles et le linge, qu’il attend patiemment dans les chambres, les caves, les malles, les mouchoirs et les paperasses, et que, peut-être, le jour viendrait où, pour le malheur et l’enseignement des hommes, la peste réveillerait ses rats et les enverrait mourir dans une cité heureuse.” Albert Camus, La Peste, tr. 357-358.
Nếu xem đó là một lời tiên tri, thì lời tiên tri đã trở thành sự thật: coronavirus!
Cơn dịch không phải chỉ trong một thành phố, mà trên toàn thế giới.
Như trong “Dịch hạch”, coronavirus mang lại chết chóc và đau khổ.
Như trong “Dịch hạch”, lúc đầu chẳng ai tin là coronavirus sẽ đến nơi mình đang ở và trực tiếp de dọa đến mạng sống của mình và gia đình mình.
Nhưng rồi coronavirus đến, càng ngày càng dữ dội, càng hung hăng. Những cái xác biết cử động đó, zoombie, cuối cùng, không còn ở xa chúng ta nữa mà đã đến ở ngay cạnh chúng ta, chực chờ trước cửa, trên đồ ăn, trong áo quần và từ những người bạn, người thân, sẵn sàng xâm nhập vào cơ thể mỗi người, không phân biệt sang hèn giàu nghèo hay da đen da trắng da vàng. Chúng tấn công “con người”. Con người kinh hoàng tự hỏi: Tại sao lại coronavirus? Chúng từ đâu đến? Chúng gây bệnh để làm gì? Lúc nào chúng biến mất?
Cả nhân loại đang sống trong cõi phi lý của Albert Camus!
Đâu đó trên toàn thế giới, đang có hàng ngàn, hàng chục ngàn và hàng triệu người chết; và cũng đang có hàng ngàn, hàng chục ngàn hay hơn nữa những Bernard Rieux, những Raymond Lambert, những linh mục Paneloux…; và không thiếu những Cottard, một kẻ cơ hội, tìm cách làm giàu nhờ cơn dịch.
Alain de Botton viết: “Camus nói với chúng ta trong thời đại riêng của chúng ta, không phải vì ông là một nhà tiên tri có phép thần thông có thể báo cho biết trước những điều mà những nhà dịch tễ học giỏi nhất không thể làm, nhưng vì ông đã nắm bắt đúng bản chất con người. Trong khi chúng ta chẳng biết gì, thì ông nhận ra rằng ‘mọi người đều mang cái dịch bệnh này trong chính mình, bởi vì không ai, không một ai trong thế giới là được miễn nhiễm cả.”(15)
Coronavirus rồi sẽ qua đi.
Nhưng cơn dịch – cái phi lý – thì vẫn còn nằm đó.
(3/2020)