Truyện ký Đào Như: Chôn súng

Nhà văn Đào Như

Với giọng nói đều đều, trông có vẻ mệt mỏi vì mất ngủ, anh Hữu tự giới thiệu mình và nói về quá trình anh đi trình diện ngày đầu tiên tại Bến Tre.

– Tôi là lính địa-phương-quân, đóng ở Bến Tre trước 75. Tôi bị đưa đi tù cải tạo tận ngòai Bắc: Hoàng Liên Sơn rồi Lào Kai. Đầu năm 80 họ chuyển chúng tôi về Nghệ Tỉnh, Lý Bá Sơ. Cuối năm 80 tôi được ‘lệnh tha’ thuộc diện sức khỏe. Đi tù cải tạo ở ngòai Bắc, nghề chính của tôi là xẻ gỗ. Tôi bị tai nạn cây đè, gẫy kín xương đùi trái. Anh đưa tay phải cao lên và chòang vai người bạn ngồi bên cạnh, anh bảo:

– Cũng là nhờ đi tù cải tạo tận ngòai Bắc mà tôi được biết anh Phùng này đây. Chúng tôi ở cùng chung một trại từ Hoàng Liên Sơn…Nói đến đây, anh và anh Phùng, hai người ôm nhau cùng cười. Anh Phùng cảm động, cố nuốt nước bọt, giọng anh ngậm ngùi:

– Nguyên tôi là Đại úy, Lực Lượng Đặc Biệt, đóng ở Vùng Ba Biên Giới, tiếp liệu và liên lạc với bên ngoài hoàn toàn bằng trực thăng. Việt Cộng dùng đặc công đánh úp đồn. Tôi bị bắt. Gia đình được khai báo là tôi bị mất tích, xem như đã chết. Vợ tôi lãnh ‘tiền tử’. Khi bị bắt, tôi thuộc diện tù binh, nhưng sau 30-4-75 cộng sản chuyển tôi sang chế độ học tập cải tạo. Năm 76 họ chuyển tôi ra tận ngoài Bắc, nên mới được ở chung với ông Thiếu tá Hữu này đây. Khi cấp cứu anh Hữu bị gẫy kín xương đùi tại Lào Kai, có tôi. Chính ở Lào-Kai tôi và anh Hữu hái được trái “mắt cọp”, trái cây quí của người Bắc. Xin lỗi anh em tên nó không thơm lắm, nhưng khi ăn không đến nỗi nào…Câu chuyện trái “mắt cọp” vì cái tên vô duyên của nó làm cho anh em tòan nhóm điều trị cười một trận.

Sau đó Thiếu tá Hữu tiếp nối câu chuyện về anh:

– Sự thật thì cho tới năm 75 tôi vẫn còn là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 52 Địa Phương Quân, tỉnh Bến Tre. Bộ chỉ huy của tiểu đoàn đóng ở rừng Rạch Rợp, dựa lưng vào sông Ba-Lai. Địa bàn hoạt động của tiểu đòan là 16 xã thuộc quận Ba Tri. Sau khi Tướng Nguyễn Khoa Nam tuẫn tiết vào đêm 30/4/75, cũng như các sĩ quan của các đơn vị quân đội “Vùng 4”, chúng tôi buông súng và đi trình diện tại quận Ba Tri. Đến trình diện, thoạt tiên thấy cộng sản họ cũng tử tế. Họ đội nón tai bèo hoặc nón cối, đến ân cần nói chuyện với các sĩ quan trình diện. Tất cả đều nói một câu mà hình như có ai dạy cho họ và họ thuộc lòng sẵn trong bụng. Họ bảo anh em chúng tôi: “Các anh phải thật thà, thành khẩn mà khai báo, đừng có khai man tên họ, lý lịch và chức năng của mình. Cách mạng có cái nhìn thấu suốt tam đại, tứ đại của các anh”. Một anh chiến binh cộng sản coi còn trẻ, chừng 17, 18, đội mũ tai bèo, nói giọng Bắc, đến nhẹ nhàng hỏi tôi và ghi tên họ cùng chức năng Tiểu Đoàn Trưởng của tôi. Một ông sĩ quan của họ, đội nón cối và cũng người miệt ngoài đó, đến cúi xuống trên tờ kê khai lý lịch của tôi, đóng khung bằng mực đỏ chức năng

Tiểu Đoàn Trưởng của tôi. Đoạn ông ta ngước ngược tròng con mắt lên nhìn tôi, cái nhìn sắc lạnh xuyên suốt cột sống tôi. Cái nhìn ghê rợn ấy có sức ám ảnh tôi. Mãi đến bây giờ đôi khi tôi vẫn nhìn thấy lại trong những cơn ác mộng. Nói thật với các anh em, lúc đó tôi thấy cái gì bất ổn cho riêng tôi. Làm xong mọi thủ tục, họ bảo: “các anh ai về nhà nấy, và chờ lệnh gọi tập trung sau”.

Trên đường về nhà, tôi suy nghĩ thật mông lung. Tôi có cảm tưởng mình là con cá nằm trên thớt. Tôi gặp thượng sĩ Long đang chạy xe Honda. Nó là thượng sĩ già, kinh nghiệm, từng trải, trước sau như một, trung hậu với tôi. Tôi đem chuyện kể cho nó nghe. Nó có vẻ sợ cho tôi, nó bảo:

– Hay là ‘ông thầy’ về trình diện ở thị xã Kiến Hòa cũng không muộn. Ở đó ‘có người có ta’, chớ ở quận Ba Tri này, chỉ có ông thầy là ‘lớn’. Ngại lắm…

Tôi còn mãi cân nhắc, thượng sĩ Long vụt nói:

– Giờ này không còn ai dám chạy xe lôi xe lam rước khách cả. Được, tôi chở ông thầy đi Kiến Hòa bằng xe Honda của tôi.

Chỉ vỏn vẹn có 5 phút, nó ghé nhà cho vợ nó hay. Nó bảo tôi ngồi sau lưng nó, ôm nó thật chặt. Nó chở tôi một mạch về Kiến Hòa. Trên đường vảo thị xã Kiến Hòa tôi gặp Trung tá Bành Tấn mới hôm qua ông còn là Tham Mưu Trưởng Tiểu khu Kiến Hòa, bây giờ ông mặc đồ dân sự, mang dép Nhật, đang đi lẹt xẹt trên vỉa hè đường phố. Tôi liền đến trình bày với ông ta về sự thể của tôi tại Ba Tri. Ông ta hơi ngại cho tôi. Ông ta bảo:

– Ở quận Ba Tri không ai mà không biết anh. Thì cũng đành vậy thôi.

Lúc ấy trông mặt ông ta có vẻ căng ra, mồ hôi rịn trên trán ông. Trung Tá Tấn vụt hỏi tôi:

– Quê anh ở Sa-Đéc? Còn sớm chán, về ngay quê quán mình mà trình diện cho ‘có bà con’ và cũng có vẻ thật thà hơn, chớ ở Bến Tre này anh cũng biết ngại lắm, chính tôi cũng không biết thân phận của tôi ngày mai ra sao!

Tên Thượng sĩ già của tôi cũng chụp nói vào:

– Đúng rồi đó ông thầy. Tôi đưa ông thầy xuống phà, xong tôi bốc ông thầy lên ngã ba Trung Lương để ông thầy đón xe đò về bến phà Mỹ Thuận rồi thẳng về Sa-Đéc nội trong ngày, trước hai hay ba giờ chiều nay. Tôi bắt tay Trung Tá Bành Tấn, chúng tôi chưa hề bắt tay nhau ngỡ ngàng như vậy, không phải là lời chào vĩnh biệt, cũng không phải lời hẹn tái ngộ. Có gì bẽ bàng cho thân phận chúng tôi.

Ngã ba Trung Lương, một ngã ba sầm uất, nhộn nhịp của các tỉnh phía Nam Saigòn. Nó nằm bên này sông Tiền trên trục giao thông của các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Nó nối liền đường về các tỉnh miền Tây, đường đi Mỹ Tho, Vĩnh Long, bến phà Mỹ Thuận, về Sa-Đéc và Đồng Tháp v.v…Cách nó không xa là căn cứ Đồng Tâm, Trung tâm Hậu cần Quân khu 4; và cũng cách nó không xa là

Bộ Tham Mưu của Sư đòan 7. Hôm nay, tại ngã ba Trung Lương, người qua kẻ lại có vẻ bối rối khác thường. Ai cũng có bộ mặt thảng thốt, ngỡ ngàng. Những anh em binh sĩ quân đội Việt Nam Cộng Hòa mới hôm qua, hôm nay mặc đồ dân sự, mang dép Nhật, đứng nhìn sững sờ các chú lính giải phóng, đội nón tai bèo, lái xe jeep chạy tứ tung, vô kỷ luật. Họ không biết lái, họ húc phải người, tung cả quán hàng. Có xe bị lật bên đường. Có xe hết xăng bỏ ngay giữa con lộ. Nhìn lại, đó là những chiếc xe nhà binh mà các bộ đội giải phóng lấy tại căn cứ Đồng Tâm và Bộ Tham Mưu Sư đòan 7. Có người lính giải phóng đội nón tai bèo, đứng trên xe jeep la lớn bằng giọng Bắc Kỳ: “Đó là qui luật của chiến tranh”, và anh ta chỉ súng AK lên trời bắn đùng đùng. Tôi thấy buồn lắm. Buồn lắm các anh em. Mới hôm qua cả Quân Đòan 4 đều nắm vững tay súng, chủ động trên khắp chiến trường, làm chủ trong mọi tình thế. Đêm qua Tướng Nguyễn Khoa Nam tuẫn tiết tại Cần Thơ, cả Quân Đòan 4 sụp đổ. Cộng sản chiếm cả Vùng 4 không tốn một viên đạn. Tôi cảm thấy mất mát quá nhiều. Tôi vô cùng xấu hổ khi thấy mình cải trang trong bộ đồ dân sự, chân mang dép. Tôi thấy thương mình vô hạn. Tôi còn trẻ. Tôi mới 32 tuổi, Tiểu đoàn trưởng. Cuộc đời binh nghiệp của tôi chấm dứt sớm và thê thảm như vậy sao? Tôi nghĩ đến Thúy, vợ tôi. Tôi nhớ các con tôi. Có lẽ giờ này tất cả mẹ con đang ngóng mong tôi tại Sa Đéc. Cầm lòng không được, nứơc mắt dâng tràn!

Anh Hữu bậm môi, cố gắng tiếp nối câu chuyện của mình:

– Như các anh biết, lúc đó rất ít xe chạy. Tôi có ý sợ không có xe về sớm để kịp giờ trình diện. May quá lúc đó một chiếc xe nhà binh GMC chạy trờ tới. Trên xe có mấy anh em bộ đội giải phóng đội nón cối, cũng có những người đàn ông đàn bà mặc đồ dân sự. Tôi liền đưa tay đón chiếc xe lại. Khi đến gần, họ ngừng xe lại, tôi thấy người tài xế lại là chú lính Việt Nam Cộng Hòa. Tôi mạnh dạn hỏi lớn:

– Cho quá giang về phà Mỹ Thuận có được không?

Một anh bộ đội giải phóng, nói giọng Bắc la lớn:

– Nào! Lên đi nào. Khẩn trương lên. Trưa cả rồi.

Một cánh tay đưa xuống kéo tay tôi lên. Khi bàn tay tôi chạm phải bàn tay anh, tôi thấy tay áo anh làm bằng vải kaki xanh Nam Định. Tim tôi se lại. Dưới màu kaki xanh Nam Định này, tôi đã nhiều lần nhìn thấy trên chiến trường những xác chết trẻ trung dưới hai mươi tuổi, trên ngực họ, trên tay họ hay trên lưng họ xâm hàng chữ “Sanh Bắc, Tử Nam”.

Xe chạy…và chạy xa ngã ba Trung Lương. Mọi người ngồi trong xe đều im lặng. Hình như mỗi người đang theo đuổi những ý nghĩ riêng của mình. Ai cũng có vẻ ngỡ ngàng khi chạm phải mắt nhau. Xe chạy qua những thôn xóm quen thuộc tôi đã từng qua lại nhiều lần từ thuở thiếu thời, cắp sách đến trường gặp thầy, gặp bạn. Hôm nay nay trông quạnh vắng lạ thường. Trường học đóng cửa không một bóng dáng học trò, chợ búa tiêu điều không ai nhóm, nền gạch trơ, phất phơ mấy miếng lá chuối khô bay. Có lúc trên xe im phăng phắc. Hình như ai cũng đang chờ đợi cái gì. Sau những năm chiến đấu ồn ào với súng đạn, bây giờ tôi mới hiểu im lặng là cái đáng sợ. Nhất là cái im lặng sau cuôc chiến, cái im lặng chứa đầy tử khí, ngạo nghễ và phản kháng. Các anh bộ đội miền Bắc, có lúc cố gắng pha trò để đỡ buồn, đỡ căng thẳng. Có anh nhái giọng Nam bộ, hỏi người trên xe: “Mần sao? Bà con làm một chuyến du lịch từ Rạch Miễu đến phà Mỹ Thuận trên chuyến xe đò cách mạng kỳ này chắc ‘dzui’ lắm hả”? Câu pha trò của anh rơi vào khỏang không. Tôi gượng gạo, nhìn bâng quơ ra ngòai. Làng mạc ruộng vườn bao la một màu xanh rờn vắng bóng người nông phu, chỉ có những cánh cò bay lặng lẽ.

Chợt anh tài xế la lớn

– Đến bến phà rồi bà con ơi!

Tôi vội vàng cám ơn mọi người và nhảy xuống xe trước nhất. Một cánh tay cầm khẩu AK của anh bộ đội giăng ra chận tôi lại. Tôi hốt hoảng không biết xử trí như thế nào; nhưng với phản xạ tự nhiên của người lính, bàn tay phải của tôi đã sẵn trong túi quần, lúc ấy ngón tay cái của tôi đã nằm sẵn trên khóa an toàn, và ngón tay trỏ của tôi lúc đó cũng đã sẵn sàng nằm trên cò của khẩu Colt 12 mà tôi lận rất kỹ trong người và nó sẵn sàng nổ. Anh chàng bộ đội, nhấm nghiền đôi mắt lại, ngước cổ cao lên và la lớn:

– Ối giời! Chúng tôi đèo anh từ ngã ba Trung Lương, đến tận đây thì anh phải trả tiền chứ, sao lại chỉ có cám ơn? Nói thật, lúc đó tôi mới lấy lại bình tĩnh. Tôi từ từ rút bàn tay phải ra khỏi túi quần có dính theo tờ giấy bạc 500 đồng đưa cho anh bộ đội và nói cám ơn anh ấy.

Trên đường tôi ngồi tiếp xe lôi về nhà, tôi nhớ lại câu nói của anh bộ đội: “tôi đèo anh”, tôi cười một mình. Mãi sau này đi tù cải tạo tại miền Bắc tôi mới hiểu được nghĩa của chữ “đèo”. Chiến thắng Miền Nam, đối với các anh nhanh quá! Các anh ngỡ ngàng như còn trong mơ. Các anh chở chúng tôi trên chiếc xe hơi nhà binh GMC mà các cứ tưởng là các anh đang đèo chúng tôi trên chiếc xe đạp thồ trên con đường quê nào đó tại miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

Về đến Sa Đéc, trước khi đến nhà, đi ngang qua một công đất bỏ hoang, cây cối um tùm, có con lạch nhỏ, nước sâu đến gối và nhiều bùn, tôi dừng lại, suy nghĩ một hồi…Tôi bước xuống đứng dưới con lạch. Bỏ tay vào túi quần, tôi từ từ tháo gỡ cây súng. Tôi kiểm soát khóa an toàn, cho nó rơi xuống trong ống quần, rơi thật sâu xuống con lạch nước. Tôi nghe cây súng rơi xuống đến mắt cá chân tôi. Tôi dí bàn chân sâu vào trong bùn và rút lên từ từ. Cây súng, ngang mắt cá chân tôi rơi theo đúng vào lỗ bùn sâu. Bước lên khỏi con lạch, mang lại đôi dép, tôi đi hướng về nhà không ngoảnh mặt lại…

Có một chút gì ân hận chua xót trong tôi. Hình như tôi vừa từ giã ai? Một người bạn? Một chiến hữu? Một khẩu súng? Một thoáng bâng khuâng mơ hồ, tôi vừa bước qua ngưỡng cửa cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp…/.

Đào Như
Chicago-Ill.USA