Truyện ngắn Phạm Lưu Vũ: Cuối cùng và mãi mãi
Không biết từ bao giờ, đối với tôi, Tết luôn là những ngày kì diệu trong năm. Kì diệu không phải vì trẻ con có áo mới, có mừng tuổi… người lớn có chúc tụng, sum họp, mâm cỗ có bánh chưng, rượu tết, đường làng có xác pháo, áo hoa … Song tất cả chỉ là những biểu hiện, là tập quán, văn hóa… Sâu thẳm của Tết là tâm linh, là sự hội ngộ của “âm dương cách trở”, mà từ những “biểu hiện” ấy, có thể đọc ra cả một cõi tâm linh, bởi tất cả đều từ tâm linh mà ra. Làng tôi còn truyền tụng câu chuyện, xưa có một người con hiếu đi làm ăn trên miền ngược, năm nào cũng về chúc tết bố mẹ vào đúng ba mươi tết, sáng mồng một lại đi. Mấy năm liền như thế, bố mẹ giục lấy vợ thì anh chỉ cười. Lạ cái là thấy anh ta không hề già đi chút nào. Mãi sau này gia đình mới nhận được hung tin, thì ra anh ta chẳng may đã bị chết đuối ngay từ năm đầu tiên. Gia đình tìm lên mạn ngược để đưa anh về lập mộ, từ đó những cái tết mới vắng mặt anh. Anh ấy chẳng may đoản mệnh, nhưng đã kéo dài thêm kiếp người của mình bằng những cái tết như thế đấy. Ông nội tôi bảo tôi như vậy.
Nhiều người không tin có chuyện đó, nhưng tôi thì tin, vì tôi biết, rằng tâm linh có thể tạo nên thân người, tạo nên tất cả chúng ta, cả hạnh phúc lẫn khổ đau… Trước tết năm ấy, tôi không thể nào quên câu nói của ông tôi:
– Đây là cái tết cuối cùng, chú con ăn tết ở nhà.
Ông nội tôi nói ra câu ấy, nói với tôi mà như không nói với tôi. Sáng hai mươi ba tháng Chạp, đứng trước bàn thời thắp hương khấn các Cụ xong, ông tôi bước ra ngoài hiên, với tay lên mái lấy xuống một chiếc gương. Không phải ông soi gương, mà là xem gương, đọc gương… một lát sau ông quay sang tôi nói câu ấy. Ông nội tôi đã “đọc” thấy gì ở trong chiếc gương kia? Tôi bấy giờ mới học vỡ lòng, biết gì mà thắc mắc nên nghe xong bỏ đấy, trong đầu chỉ háo hức hai chữ “sắp tết”, nhất là tết năm ấy, nhà tôi có việc đi hỏi vợ cho chú tôi.
Chú sinh dưới bố tôi, dưới chú còn một cô nữa. Bấy giờ nếu tôi là thiên thần của cô chú, thì cô chú là thần tượng của tôi. Tôi ngủ chung với ông nội, những đêm hè được ông quạt cho. Có đêm nóng quá, chợt thức giấc vì ông đã ngủ rồi, thì lại thấy một bóng người đứng bên ngoài màn, nếu không phải cô tôi thì cũng là chú tôi. Cô hoặc chú tôi thì thào, dụ dỗ rồi bế tôi sang ngủ cùng để tiếp tục quạt. Chú tôi đẹp trai, cao to lực lưỡng, như thần thánh, như siêu nhân loại… sáng sáng tập thể dục, chú tung tôi lên trời rồi đỡ lấy, đếm từ một đến mười…
Cuối sân nhà tôi có một chiếc ao nhỏ, cùng với con ngòi của làng, ngoằn ngoèo thông ra tận sông Hàng rồi đổ ra sông Cái. Con ngòi không bao giờ cạn nước, ao nhà tôi cũng thế. Ông tôi bảo dưới đất có long mạch, chạy từ tít phía trên ngược, vào trong làng rồi thông tới đây, con ngòi chính là nhánh lộ thiên của cái long mạch ấy. Ông tôi cắm một chiếc vó bè, như một chàng khổng lồ lực lưỡng ở ngoài sông Hàng. Ông và chú còn làm một chiếc lều tre khá chắc chắn, gần sát mặt nước để kéo vó. Chú thường chở tôi bằng chiếc thuyền câu, từ ngay cầu ao nhà tôi, bơi vòng vèo dưới những rặng tre, cánh đồng… ra tận chỗ vó bè. Những đêm nằm ngủ cùng với ông nội trong lều để kéo vó, là những đêm tuyệt thú của tuổi thơ, suốt đời tôi không thể nào quên.
Nghe ông dặn bà nội sắm nải chuối, quả bưởi để bày mâm ngũ quả, trong đầu tôi liền nghĩ ngay đến cây bưởi trĩu quả trong vườn nhà ông Mười. Bèn tót ngay sang nhà thằng Sơn, bàn với nó ăn trộm mấy quả. Thằng Sơn gật đầu ngay, tôi bảo để tớ về lấy chiếc câu liêm, Sơn bảo dùng câu liêm lạc hậu rồi, có cách khác nhanh gọn hơn. Vườn nhà ông Mười ngay cạnh vườn nhà thằng Sơn, cây bưởi mọc sát hàng rào, đứng dưới gốc nhìn lên, như vũ trụ của Hoàng Tử Bé, mỗi quả bưởi là một hành tinh… Hai thằng lừa lúc cả nhà ông Mười đi làm đồng vắng, liền khom người chạy tới, trong tay thằng Sơn cầm một chiếc đinh ba. Tôi công kênh thằng Sơn trên vai, thằng Sơn giương chiếc đinh ba lên, nhằm đít quả bưởi xọc một nhát rồi xoay nhẹ… trong khoảnh khắc, dưới chân tôi đã chất cả đống bưởi…
Bưởi có rồi, đến khoản nải chuối, tôi nghĩ đến anh Dũng trong làng, một tay nổi tiếng láo lếu và nghịch ngơm, hơn tôi mấy tuổi. Anh Dũng mới bán cho tôi khẩu súng diêm, nòng làm bằng ống dẫn dầu cưa trộm ở chiếc máy cày ngoài cánh đồng, ty làm bằng chiếc van xe đạp Thống Nhất, nổ bách phát bách… điếc tai. Ngày tết mà không có tiếng súng, mùi khói diêm và xác pháo thì buồn lắm. Tôi năn nỉ mãi, anh ấy mới đồng ý bán với giá hai hào rưỡi, vừa bằng giá một cân thịt lúc bấy giờ. Trong túi tôi chỉ có một hào, còn hào rưỡi hẹn sau tết sẽ gom tiền mừng tuổi để trả nốt.
Nhà anh Dũng ở giữa làng, trước sân có một cái giếng trong vắt, nước lúc nào cũng cao hơn mặt sân, những trận mưa rào, dù to mấy cũng chẳng đầy thêm, múc đi bao nhiêu cũng không cạn bớt. Mùa hè lũ chúng tôi rất thích tụ tập tắm truồng ở đấy vì nước giếng mát đến lạnh người. Nghe tôi ngỏ ý kiếm nải chuối để bày mâm ngũ quả, anh Dũng liền ghé tai tôi, bảo vườn nhà ông Ẩn sau làng có buồng chuối tây rất to. Thế là kế hoạch chặt trộm buồng chuối nhanh chóng được chúng tôi vạch ra.
Mờ tối hôm đó, tôi theo anh Dũng mò vào vườn ông Ẩn. Nhà ông Ẩn như một cái “bán đảo”, thò ra cánh đồng phía sau làng. Tối mùa đông trời trong veo, không trăng, nhưng những ánh sao nhấp nháy tít trên cao cũng đủ soi những bóng người, huống hồ trong mắt kẻ trộm thì không bao giờ có đêm đen. Hai thằng vén quần lội tắt qua cánh ruộng rau muống để đột nhập. Ngồi dưới gốc bụi chuối dòm lên, buồng chuối to như một cái chuông chùa, rất cao so với bọn trẻ con chúng tôi. Anh Dũng rút trong cạp quần ra một chiếc dao găm, đứng dạng chân chèo, dùng hết sức cứa lưỡi dao vào thân cây chuối, tôi ngồi dưới gốc nín thở chờ đợi.
Nhưng thân cây chuối to quá, anh Dũng cứa một hồi, mà cũng chỉ vào được non nửa, hết tầm của lưỡi dao găm. Anh ấy liền dắt con dao vào thắt lưng rồi cúi xuống, vỗ vỗ vào vai ra hiệu cho tôi. Tôi hiểu ý, liền ngồi ôm sát lấy thân cây để anh Dũng trèo lên vai, tôi từ từ vịn thân cây đứng dậy. Song chiều cao của cả hai thằng vẫn chưa đủ với tới buồng chuối, anh Dũng liền ôm chặt lấy thân cây, hai chân rời khỏi vai tôi và bắt đầu trèo.
Tôi lại ngồi thụp xuống, nín thở theo dõi. Anh Dũng đã lên tới ngọn, đã có thể với tay tới buồng chuối. Thấy anh ấy quờ tay ra sau lưng để lấy dao, tôi trong lòng đã khấp khởi thì bất ngờ… rắc, rắc… Ngọn chuối cùng anh Dũng, cả buồng chuối bỗng từ từ hạ xuống vườn. Tôi chợt hiểu ra, thân cây chuối bị gãy đúng chỗ anh Dũng vừa cắt dở. Lúc nãy chưa đủ làm cho nó gục xuống, nhưng giờ có thêm trọng lượng của anh Dũng nữa nên mới bị gãy.
Thế rồi: “rầm” một cái, gần cả thân cây chuối cùng cái buồng quả nặng nề của nó và anh Dũng đổ quật xuống, mảnh vườn mới được cuốc lổn nhổn. Tôi ngồi dưới gốc, lạ cái là không hề có cảm giác hoảng sợ của một tên ăn trộm, mà lại suýt… bật cười thành tiếng. Trong đầu còn thoáng nghĩ đến chuyện thế là chỉ việc đứng dưới vườn cắt lấy buồng chuối… Nhưng không, với bản lĩnh và kinh nghiệm của một tên trộm lành nghề, vừa tiếp đất sau tiếng “rầm” vừa rồi, anh Dũng liền đứng ngay dậy, nhanh chóng lom khom chạy đi, qua bãi đất mới cuốc, hướng về phía bờ ruộng. Bấy giờ tôi mới không hãm trận cười của mình lại được nữa, song cũng chỉ dám cười thầm, cười khùng khục, cười rung toàn thân.
Mấy giây sau, nghĩ ra thấy mình quá vô duyên, tôi bèn dừng trận cười, rồi cũng biết lối mà đứng dậy, chạy theo phía anh Dũng. Vừa ra tới mép vườn, anh Dũng đang nằm núp ở đấy, anh liền kéo tôi nằm xuống, trỏ tay về phía bụi chuối. Tôi quay lại và… hú vía, một ánh đèn đang soi đúng chỗ tôi vừa ngồi. Ông Ẩn từ trong nhà đã kịp nghe tiếng động và chạy ra… Hai thằng nằm im, nín thở đợi ông Ẩn xách buồng chuối vào trong nhà rồi mới tụt xuống ruộng…
Tôi len lén trở về nhà, ông nội nhìn tôi chỉ nói: “mải chơi thế?”, rồi chỉ bát cơm phần đậy sẵn trên phản. Bà nội tôi đang ngồi tụng kinh, quyển kinh đặt trước mặt, tôi lén nhìn qua vai bà, chỉ kịp đánh vần được hai chữ: “LỤC ĐỘ”.
Cuộc ăn trộm bất thành và sự hồi hộp không đến nỗi làm tôi trằn trọc. Chui vào trong chăn nằm bên cạnh ông nội, tôi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Tôi mơ thấy làng xóm tôi tiêu điều, đồng đất khô hạn, cả con ngòi và chiếc ao nhà tôi cũng cạn trơ đáy. Dân làng ai cũng run rẩy, đi đứng không vững vì… đói khát. Bỗng có tin đồn, ngoài bãi sông mới dạt lên một con cá rất to, to đến nỗi cả làng ăn cũng không hết. Mọi người mừng rỡ, rủ nhau cầm rổ rá xuống bãi sông Cái để chia thịt cá. Tôi cũng chạy theo họ.
Một con cá khổng lồ, dài thượt đang nằm lặng trên bãi cát nâu. Phải ví nó với một con bò, con trâu… cũng đều không xứng. Dân làng đổ xô vào xẻ thịt con cá. Tất cả những rổ rá mang theo đều đã đầy ắp, mà thịt của con cá vẫn còn, có vẻ như không bao giờ hết. Tôi bỗng dưng đói đến hoa mắt, liền cũng lao vào, cởi áo bọc một bọc thịt cá mang về…
Bà nội tôi đem nấu lên, thịt cá thơm ngào ngạt. Tôi còn không kịp đợi cho nó nguội, thò tay bốc lên, cho vào mồm nhai lấy nhai để. Đang nuốt thịt ào ào, chợt thấy đau nhói trong cuống họng, thoáng nghĩ đến chuyện hóc xương, tôi liền cố khạc ra, nhưng càng khạc càng đau. Tôi hoảng sợ đến đờ đẫn. Bỗng có tiếng gọi khẽ, tôi giật mình, ra khỏi cơn mơ thì mừng hú, nhưng cảm giác hóc xương thì vẫn chưa tan hẳn.
Chú tôi đang đứng bên ngoài màn. Chú cúi người chui vào, bế tôi sang ngủ cùng với chú.
Sáng hôm sau dậy muộn, thấy ông nội đang ngồi lặng trước cửa, tôi móc quả bưởi giấu trong hộp ra, cầm hai tay dâng lên cho ông, mồm nói:
– Bưởi đây ông ạ. Để ông bày mâm ngũ quả…
Ông tôi cầm quả bưởi, xoay đi xoay lại, thấy ba lỗ thủng ở đít quả bưởi, ông nhìn tôi và nói:
– Quả bưởi này không bày được cháu ạ,
Tôi sững người thất vọng, song vẫn cố gặng:
– Sao không bày được hả ông?
Ông nhìn tôi, cái nhìn ý nhị rồi mỉm cười bảo:
– Của ăn trộm thì không cúng các Cụ được.
Tôi choáng người. Không lẽ ông tôi biết… Vừa may lúc ấy, có tiếng chú tôi đi đổ đáy ở cống Cau về. Chú tôi nói như reo:
– Đáy hôm nay có cá to, to đến nỗi không lọt nổi hom giỏ.
Tôi và ông chạy ra. Chú tôi vừa đổ ra một rổ cá lẹp, bên cạnh là một con cá dài thượt, nằm trên chiếc nong màu nâu, cái đuôi nó vẫn cong lên, miệng ngáp ngáp.
Tôi nhìn con cá và giật nảy mình, mồm há hốc. Sao nom giống con cá trong giấc mơ đêm qua thế?
Mấy bác hàng xóm cũng chạy sang, miệng không ngớt xuýt xoa khen nức nở, ước chừng con cá phải nặng đến chục cân. Và đặc biệt, không ai biết đó là cá gì, không phải cá chép vì đuôi nó không đỏ, không phải cá trắm vì mình nó quá dài, không phải cá trôi vì mắt nó không đỏ…
Lúc ấy bà tôi từ trong nhà cũng vừa bước ra. Nom thấy con cá, bà tôi liền nói:
– Đó là cá chiên.
Không ai ngờ bà tôi lại biết chắc như thế. Nhưng cá chiên là cá gì? Chưa ai kịp hỏi thì bà tôi lại chỉ vào con cá mà bảo với chú tôi, giọng bà như ra lệnh:
– Đem nó thả ngay ra sông Cái.
Mọi người ai cũng sững sờ. Riêng chú tôi thì tuân lời ngay, không dám chậm trễ. Chú tôi liền cúi xuống ôm con cá lên, cẩn thận bỏ nó vào trong chiếc dậm rồi vác lên vai, quay người rảo bước ra phía cổng. Tôi cũng lon ton chạy theo.
Ra tới sông Cái, bãi cát trải ven sông cũng y hệt trong giấc mơ… Chú tôi lội xuống, tới ngang thắt lưng mới cất chiếc dậm ra khỏi vai rồi thả xuống nước. Con cá trôi ra khỏi chiếc dậm, nó từ từ lật mình lại, vẫy vẫy hai chiếc vây trước, đứng yên một lát rồi thong thả quẫy đuôi bơi đi.
Chú cháu tôi còn đứng ngắm một hồi rồi mới quay trở về nhà. Vào đến sân, thấy ông tôi đang tiếp khách. Có người ngồi trong nhà, nom như… ông Ẩn?
Tôi choáng người vì sợ hãi. Chắc ông Ẩn tới nói với ông nội tôi về vụ trộm buồng chuối tối qua. Thì ra ông ấy biết tỏng đứa nào là thủ phạm. Tôi sợ quá, trốn biệt ngay vào trong buồng. Mãi đến khi ông Ẩn chào ông tôi về rồi mà tôi vẫn không dám thò mặt ra.
Nhưng mãi không thấy ông tôi cất tiếng quát gọi… tôi mới rụt rè bò ra khỏi chỗ trốn rồi lò dò bước ra. Một nải chuối to tướng, ngay ngắn đang đặt trên bàn. Ông nội nhìn tôi cười vui vẻ, ông bảo:
– Ông Ẩn vừa đem biếu nải chuối, để ông cháu ta bày mâm ngũ quả đấy.
Bên cạnh nải chuối còn một quả bưởi rất to, vàng óng và lành lặn. Ông tôi lại trỏ sang quả bưởi mà bảo:
– Ông Mười cũng vừa đem biếu quả bưởi này…
Tôi bấy giờ không còn biết nói vào đâu được nữa. Sao lại có sự trùng hợp như vậy nhỉ? Chẳng lẽ cả ông Mười và ông Ẩn đều biết tỏng tôi là tòng phạm trong những vụ trộm ở nhà họ? Vụ trộm bưởi diễn ra giữa ban ngày, song chỉ có tôi và thằng Sơn biết, vụ trộm chuối diễn ra buổi tối, cũng chỉ có tôi và anh Dũng biết… Lúc đó, trí óc của một thằng vỡ lòng như tôi, đâu có ngờ rằng ngoài những tên trộm như chúng tôi, còn có Trời biết, Đất biết… Ý nghĩ của tôi về việc mình đang sống giữa một thế giới tâm linh, trong một mạng tâm linh, của cả người sống lẫn người chết đã bắt đầu bằng những cách như thế đấy.
Rồi đến công việc chuẩn bị Tết nhất và lễ ăn hỏi cho chú tôi. Có lẽ đó là (và sẽ là) cái Tết to nhất, tưng bừng nhất mà tôi được chứng kiến trong suốt cuộc đời. Ông tôi bàn làm cả ba thứ bánh, không kể bánh chưng. Bố tôi bảo người ta đang vận động “nếp sống mới”, nên làm đơn giản thôi. Ông tôi không nghe, ông bảo công việc hỏi vợ là không cũ, song cũng không mới. Ba thứ bánh ấy, tôi chỉ được thấy ông tôi làm một lần duy nhất trong đời, là bánh gai, bánh lá và bánh mật. Bánh gai làm trước, nhiều đến nỗi phải giã bột, giã lá gai trong cối giã gạo, hấp bánh trong nồi ba mươi. Trước cổng nhà tôi luôn có một đám cỏ gai xanh tốt. Đó là một thứ cỏ dại mà lá dùng làm bánh, vỏ tước ra, se lại thành sợi tơ để dệt vải, mọc ở đâu thì đất ở đó có mùi thơm, còn lưu lại hàng chục năm dù đã bị dọn sạch. Cỏ gai có tên chữ là “chỉ thảo”, ông nội tôi bảo thế, thì “chỉ” là tới đúng nơi, gặp được đúng chỗ, và hỏi được đúng người, cho nên đám hỏi phải có bánh gai. Hai mâm bánh gai bọc lá chuối khô thơm lựng, buộc lạt hồng đầy tú ụ đặt trên phản. Tiếp đến là bánh lá, tròn to bằng chiếc ròng rọc gầu, cũng bọc lá chuối nhưng là lá chuối tươi, cũng hấp trong chiếc nồi ba mươi. Hai mâm bánh mật, nom hao hao bánh gai, chỉ phân biệt bằng hai sợi lạt buộc không nhuộm màu hồng.
Nồi bánh chưng được nấu sau cùng, sát ba mươi Tết. Đó là một đêm không thể nào quên, vì không ngờ đó là đêm cuối cùng bên cạnh chú tôi để canh nồi bánh chưng. Tôi như con sóc nhỏ, chạy ra chạy vào, bận rộn với việc nhồi thuốc, đì đẹt khẩu súng diêm bên cạnh những tiếng nổ tí tách của ngọn lửa. Trong làng lại có đám mổ trâu, con trâu nhà cô Chen tự dưng lăn đùng ra chết, chắc do trời lạnh quá, tôi và bọn trẻ rủ nhau đi xem, một đêm cuối năm thật là náo nhiệt.
Tết năm đó tôi đang học vỡ lòng, nhưng đã đọc được sách, báo vanh vách. Chú tôi tặng một cuốn truyện, có thành phố Ngôi sao và nhân vật Mít Đặc, cùng lũ trẻ sống trong một thiên đường có đầy bánh kẹo, cỗ bàn và đồ chơi đủ các kiểu, cứ ước gì liền có nấy… Tết năm ấy đối với tôi, làng tôi biến thành thành phố Ngôi sao, cả quê tôi biến thành thiên đường… Mồng Một tết tôi theo ông nội vào chúc tết cụ đồ Vận ở trong làng, ông tôi ngày trước theo học cụ đồ Vận, cả bố tôi và các bác cũng từng học cụ mấy tháng trước khi học chữ Quốc ngữ.
Ông tôi đang ngồi nói chuyện với cụ đồ thì vợ chồng chú Chích, cô Chen mang lễ vào chúc tết cụ. Vợ chồng chú Chích lấy nhau đã lâu, đẻ mỗi mụn con gái, năm vừa rồi mang nhau đi cầu tự ở đền Sùng để kiếm thằng con giai nối dõi. Cụ đồ hỏi kết quả việc cầu tự thế nào? cô Chen có tật nói ngọng nên chỉ mình chú Chích kể. Chú đưa ra một tấm thẻ rút được ở đền Sùng. Cụ đồ xem xong đưa cho ông tôi. Trên tấm thẻ viết hai câu chữ Hán:
“Cầu cát vị lai ngưu nhập thổ
Tiễn hung bất khứ ác lìa tâm”
Tôi nhìn tấm thẻ tất nhiên mù tịt, chỉ nghe cụ đồ hỏi vợ chồng chú Chích:
– Ông thầy ở đền Sùng giảng như thế nào?
Chú Chích kể:
– Dạ, quẻ dữ lằm ạ. Ông ấy bảo cầu may đâu chưa thấy, mà đã thấy “ngưu nhập thổ”, nghĩa là trâu chết phải đem chôn. Thì quả con trâu nhà cháu vừa bị chết tối hôm nọ rồi.
Thì ra là đám mổ trâu hôm nọ, cái quẻ bói ở đền Sùng nó đã nói trước rồi, tôi nghe mà lè lưỡi. Cụ đồ nghe chú Chích nói xong, lại hỏi:
– Thế còn câu sau?
Chú Chích ngập ngừng, nhìn cô Chen một lát rồi kể:
– Ông ấy giảng, chưa tiễn được cái hung đi, thì đã “ác lìa tâm”, nghĩa là vợ chồng cháu phải… lìa bỏ nhau ạ.
Tôi nghe cũng có vẻ hiểu hai câu ấy là đoán toàn việc dữ, lại thấy chuyện trâu chết quả đã diễn ra thì thán phục cái quẻ bói kia lắm. Ông tôi cũng nhìn vợ chồng chú Chích bằng đôi mắt thương cảm.
Bất ngờ cụ đồ Vận bảo:
– Không phải đâu, ngược lại là khác. Xin chúc mừng anh chị.
Vợ chồng chú Chích sững người, vừa lóe lên hy vọng, vừa tò mò.
Cả tôi và ông tôi cũng ngạc nhiên. Cô Chen vội hỏi:
– Dạ, dạ, Cụ lói dư thế nghĩa nà sao ạ?
Cụ đồ thong thả giảng:
– Chữ của thánh có khi là tiền hung hậu cát, cho nên phải đọc cẩn thận mới được. Việc con trâu bị chết do thời tiết lạnh giá chỉ là trùng hợp mà thôi. Ở đây chữ “ngưu” (牛) nhập với chữ “thổ” (土), thì thành chữ “sinh” (生). Xưa có câu: “trung sinh hữu ngưu, hạ sinh hữu thổ” (trong chữ sinh có chữ ngưu, dưới chữ sinh có chữ thổ) là như vậy đấy. Cho nên câu trên ngụ ý nói đến việc sinh đẻ. Câu dưới thì chữ “ác” (惡), bỏ chữ “tâm” (心), thì thành chữ “á” (亞), có nghĩa là thứ, trỏ việc sinh con thứ. Thế là quá lành chứ, sao lại là dữ?
Ông tôi: “À” lên một tiếng. Tôi thì vẫn ngơ ngác, riêng vợ chồng chú Chích thì mừng rú lên, vội vàng chắp tay vái lia lịa, miệng tạ ơn cụ đồ rối rít.
Nhân tiện xin kể nốt luôn câu chuyện này. Năm đó, cô Chen quả nhiên có thai, lại khỏi luôn cả cái tật nói ngọng. Vợ chồng chú Chích Chen mừng lắm, lại mang lễ vào tạ cụ đồ Vận. Cụ đồ nhận lễ, thấy cô Chen khỏi tật nói ngọng, cụ còn bảo ấy là nhờ cái thai ở trong bụng đấy, sinh ra thằng bé sẽ rất thông minh…
Ba ngày tết dùng giằng trôi qua, mồng Năm tết lễ hỏi vợ cho chú tôi diễn ra. Ông lợn, tổng cộng gồm năm quả, do năm chú thanh niên trong họ đội trên đầu, tôi chỉ đóng vai bà tôi xếp ba thứ bánh vào ba chiếc quả, một quả đựng cau, trầu, một quả đựng chiếc thủ lon ton…
Rồi tiếp đến những ngày đầu xuân buồn bã và trống trải. Nhưng đỉnh điểm là cuộc chia tay với chú tôi, cùng mấy chú trong làng lên đường nhập ngũ. Không cờ, hoa, không diễn văn… chỉ có nước mắt và nghẹn ngào… Chúng tôi nhìn hút theo bóng chiếc xe tải giắt lá ngụy trang chở chú tôi chạy trên bờ đê, rồi thẫn thờ lê bước về nhà, mỗi đứa ngồi ôm một chiếc cột, thút thít suốt cả tuần, khiến bà tôi cũng phải quát lên trong nước mắt…
Chú tôi đi được vài năm thì đến lượt cô tôi, cô tôi đi TNXP vào tuyến lửa. Cái cảnh chúng tôi ôm cột ngồi khóc thút thít lại lặp lại. Rồi bà nội tôi mất, đúng năm thôn lấp con ngòi để làm đường làng, cái giếng bất hủ nhà anh Dũng bỗng nhiên cạn đến đáy, chiếc ao nhỏ nhà tôi cũng cạn mất mấy bậc, chỉ đầy nước vào mỗi mùa mưa…
Từ ngày con ngòi bị lấp, trong làng xảy ra nhiều chuyện lạ, đến bây giờ vẫn chưa hết mặc dù tính từ chúng tôi, đã bước sang thế hệ thứ ba. Anh Dũng về sau chẳng con cái gì, giờ cũng đã mất… Những chuyện đó xin sẽ kể sau.
Chú tôi thỉnh thoảng cũng viết thư về, nhưng chỉ được mấy năm đầu, sau đó thì bặt hẳn. Những cái tết từ đó vắng chú. Nhưng đối với tôi, thì từ cái tết cuối cùng ấy, và mãi mãi… Chú tôi luôn về ăn tết cùng với ông cháu tôi. Tết là kì diệu, là tâm linh đến với tôi bằng cách như thế đấy.
Rồi cái gì phải đến cũng đã đến. Đúng vào năm kí hiệp định Pari, bố tôi nhận được giấy báo tử. Chú tôi hy sinh ở chiến trướng bên Lào. Ông tôi lúc này đã yếu, nên bố tôi và các bác bàn nhau nên giấu ông, phải tổ chức lễ truy điệu cho chú tôi ở ủy ban xã…
Nhưng rồi cũng chẳng được bao lâu. Hai năm sau thì ông tôi suy kiệt hẳn, lúc này tôi cũng đã học lên cấp ba, như chú tôi ngày trước… Biết ông tôi chẳng còn sống được mấy ngày nữa. Bác cả với bác hai, bố tôi và cô tôi bàn nhau, thì thào phân công ai sẽ thông báo việc chú tôi đã hy sinh cho ông. Tôi ngồi trong buồng nghe mà nghẹn ngào. Thấy ai cũng tỏ vẻ e ngại, ngập ngừng, tôi liền bước ra, cúi đầu nói trong nước mắt:
– Thưa… không cần đâu ạ. Ông biết đã lâu rồi…
Ai cũng nhìn tôi, ánh mắt vừa có vẻ trách móc, vừa thương xót. Chắc mọi người đều nghĩ tôi đã tiết lộ cho ông nội việc chú tôi hy sinh, nhưng thực ra hoàn toàn không có chuyện đó. Chính ông tôi mới giấu các con, giấu những điều ông tôi đã đọc được từ chiếc gương ấy. Từ ngày chú tôi ra đi sau cái tết cuối cùng, đã chục năm trôi qua…
Nhưng tôi cũng chả muốn thanh minh. Bác tôi dẫn mấy anh em vào bên giường bệnh, ông tôi với tay ra hiệu, bố tôi hiểu ý, liền ra ngoài lấy tờ giấy, kèm một chiếc bút lông đã chấm mực sẵn. Ông tôi nằm ngửa, cầm chiếc bút run run vạch lên tờ giấy, chỉ mấy nét đơn sơ: “一 日 一 步”, đó là bốn chữ: “Nhất nhật nhất bộ”.
Không ai hiểu ý ông tôi muốn nói tới điều gì. Nếu bà nội tôi còn sống, chắc bà tôi sẽ hiểu. Và tôi cũng hiểu, vì bốn chữ đó nằm trong một đoạn kinh mà bà tôi vẫn tụng hàng ngày. Toàn văn đoạn ấy như sau: “Mạng người ví như dắt trâu ra chợ mổ thịt, trâu dời một bước, là gần đến chỗ chết một bước. Người sống một ngày như trâu bước một bước”…
Và ông tôi thanh thản ra đi. An táng cho ông nội xong, trở về tới đầu ngõ, tôi bỗng ngửi thấy mùi thơm của lá gai, từ dưới đất xông lên, mặc dù đám lá gai đã không còn ở đó, kể từ ngày chú tôi ra đi…
Phạm Lưu Vũ