Truyện ngắn Võ Thị Hảo: Ngọc Anh sang sông

Nhà văn Võ Thị Hảo

Cậu bé tám mươi ba

Hôm qua, giờ Dậu, Ngọc Anh đã sắp xếp xong hành lý.

Hành lý của cậu bé tám mươi ba tuổi bao giờ chẳng gọn gàng.

Thậm chí tã lót cũng không mang. Quanh giường đầy bỉm. Nhưng Ngọc Anh chỉ mang theo tấm vải liệm. Trắng nhạt nhẽo. Lạnh.

 Cần gì vải ấm. Ngọc Anh đang trên đường tới nhà xác. Trên một  băng ca có năm bánh xe.

 Bánh xe quay ba trăm sáu mươi. Đi đằng nào cũng xong. Phòng chờ. Phòng mổ. Phòng hồi sức cấp cứu. Nhưng giờ Dậu, hôm nay, chiếc băng ca đi sang nhà xác. Ở đó nhiều ngăn. Mỗi ngăn có một người chẳng mang theo hành lý. Nằm như cá đã bị cạo vảy từ biển rồi quấn giấy bạc trong khay lạnh.

Ngọc Anh nằm ngăn nắp, đợi đến lượt. Miệng ung dung ngậm một đồng tiền. Lộ phí.  Lót tay cho người chèo thuyền qua bến sông Mê. Qua sông Mê là đến Trời.

Ngọc Anh từng ngần ngừ trước nhiều món đồ, khi sắp xếp hành lý, cách đây hơn một năm, khi  biết chắc rằng mình bị bệnh ung thư đại tràng.

***

Tập thơ này mình có mang theo không?

Không mang.

Thế những bài thơ về chị Hồng của Ngọc Anh, Ngọc Anh có mang không?

Không mang.

Chị Hồng đẹp thế. Đời chị như một viên ngọc bị đập vỡ, rồi bị nhay cắn giữa đôi hàm răng lởm chởm. Sao Ngọc Anh không mang theo?

Thế bài thơ về chị Phượng, người chị cả lầm lụi, chịu phận mù chữ ngày ngày lam làm cật lực cho đàn em ăn học, rồi có tám đứa con đói khát. Chị chết trong cơn mơ có đủ tem phiếu cho đàn con được một bữa no, Ngọc Anh có mang theo không?

Đương nhiên là không.

Đời chị Phượng hiu hắt thế, sao Ngọc Anh không mang?

Thế chiếc tráp sơn son thiếp vàng đựng đầy sách của cha. Ông Cửu, một người từ quan về làng dạy học và bốc thuốc. Ông không lấy tiền chữa bệnh của người nghèo. Ông lại chết bởi tay của những người ông đã cứu sống. Bây giờ Ngọc Anh có mang theo?

 Không mang.

Sao không?

Vì ta làm sao mang được nỗi oan ức lên trời.

***

Rồi vợ, rồi con, rồi cháu, rồi còn hai người chị. Chị Nhạ đang sống mà hồn đã phiêu du tận chín tầng trời, chẳng dính dáng gì đến chiếc giường đầy tã lót và bỉm. Toàn thân chị bé xíu như thân con sáo sậu. Ngày ngày chị được người nhà bế  vào ra xê dịch giữa chiếc giường và toilet như đứa trẻ ba tháng tuổi.  Còn chị Tân,  mắt bồ câu mở to táo tợn, người đẹp của vùng xưa kia, tính khảng khái, thề không lấy chồng, ngón tay trỏ chĩa ra đằng trước bặm trợn chỉ vào thế sự, Ngọc Anh có mang theo không?

Không.

Cả những viên thuốc mua từ bệnh viện. Thuốc đặc trị. Thuốc biệt dược. Thuốc mới sản xuất đang được thử nghiệm trên cơ thể chuột bạch, khỉ, chó và trên cơ thể người của các nước đại loại như có cùng tầm cỡ và thể chế như nước của Ngọc Anh. Mạng của một nhà thơ tám mươi ba tuổi cũng có giá trị gần ngang mạng một con thỏ hoặc con khỉ vàng về phương diện thử mức độ tác dụng của các loại thuốc mới toanh.

Chẳng mang theo gì, kể cả  ngôi nhà bên vườn hoa Thiên chúa. Người ta gọi thế, là vì vườn hoa ấy đã mọc lên thật nhanh, khỏa lấp những tiếng khóc, những kẻ chôn chân  và tiếng cầu nguyện. Sáng sáng chiều chiều Ngọc Anh ra vườn hoa, sải bước qua lại dối già, trong tâm trí lại duyệt qua duyệt lại cảnh bắt bớ tù đày và những lời nguyền rủa.

Ngọc Anh để lại hết. Chỉ mang theo tấm vải liệm và một đồng tiền đơn độc qua bến sông Mê.

***

Ở nơi Ngọc Anh bỏ lại, là tiếng khóc.

Vợ khóc ngất. Dù biết trước cả hai năm về cuộc sửa soạn hành lý của Ngọc Anh. 

“Em hãy ngừng khóc? Được không?

 Tám mươi ba năm trên trần thế là một chuyến nhảy cóc quá dài. Giá như ta có thể tùy ý chọn đường nhảy cóc ngắn hơn. Đằng nào thì cũng chỉ trong chiếc đĩa ngột ngạt ấy. Nhảy chi cho mệt.

Em là người hiểu biết. Vậy thì hãy xắn tay áo tang, đi mua lụa đỏ. Em quấn lụa đỏ vào người, trông đẹp như một cô dâu già vẫn còn bảy phần xuân sắc. Thì cứ coi như em là cô dâu. Thời ta cưới em đâu có mặc áo cô dâu. Hồi đó ta cố tỏ ra giản dị áo nâu chân lấm để được sống sót. Giờ thì em mặc áo cô dâu đi. Cô dâu không còn trinh trắng thì mặc áo đỏ. Tại sao cô dâu lại phải còn là trinh trắng? Ta đã nhiều lần nói với em rằng chẳng lẽ cái màng mỏng dớ dẩn ấy lại ngang giá một kiếp người hay sao?

Nên cô dâu thì mặc áo đỏ. Em hát đi. Ta chỉ cần hát ru. Ta không cần tiếng khóc. Ta được em hát ru mà tiễn đưa ta qua bến sông Mê mới phải. Ta đi trước. Ta đứng bên kia bờ sông Mê mà hát, đợi em qua. Ta không bắt em phải cười mừng. Nhưng hãy thôi khóc. Đám tang của ta là lễ mừng. Mừng ta đã ra khỏi cuộc đời này.

Cớ gì mà em phải khóc. Ta đi.

 Kể từ giờ này, phút này, em khỏi phải vờ vịt. Em khỏi phải nặn ra vô số nụ cười, trước mặt những người chỉ bằng tuổi con cháu em. Ta nằm trên giường, cố chống đỡ với những cơn đau, xót xa thấy cái cột sống thẳng thớm của em chùn nhụt xuống, vai so lại như một mụ gù.  Em không quen nịnh nọt. Em có gì phải xin đâu. Em dốc hết chỗ vàng mồ hôi nước mắt gom góp cả đời trong con lợn đất phòng khi đói khó. Đưa ta vào bệnh viện, chỗ vàng trong con lợn đất của em chỉ nuôi ta được một năm. 

Năm nay, em đã phải vay giật cầm cố chỗ nọ chỗ kia. Bà vợ ông hàng xóm giường bên, cũng bị bệnh ung thư, thì thào kể rằng bà ta trông thấy em ở chỗ bán máu. Ta đã trốn khỏi giường bệnh. Ta đã sống đủ rồi. Mà sao em cứ ngang ngạnh như một con lừa. Em gầy hốc má vì nhịn cho ta chữa bệnh. Ta là một con bò đã bơi qua sông. Bên kia sông chưa hẳn đã có cỏ non nhưng bên này sông thì cỏ đã chết khét hết rồi, sao em còn bắt ta trở lại. Thì em cứ để cho lũ “lương y như hổ báo” ấy quẳng ta chỏng chơ ngoài sân, như bao người không có tiền đút lót hoặc ngờ nghệch đang kêu khóc ngoài kia, cho ta đi nhanh tới miền cực lạc. Thế mà xấp phong bì trong túi em cứ cộm lên như một chiếc bướu ghê tởm. Khi em nhìn thấy mũi tiêm của cô y tá vừa chọc vừa xoáy vào bắp tay ta  khiến mặt ta tái mét  vì đau, mặt em đanh lại, từ đó em đã học được cách biến hoá với những chiếc phong bì.  Cũng như khi em đi xin học cho cháu nội. Cũng như khi em có việc phải đụng đến những công quyền. 

Ta nhìn em phải co rúm trước người khác. Ta vô dụng quá. Ta trốn khỏi bệnh viện ba lần. Ta đã nói với em rằng tính ta ưa ngọt. Ta run lẩy bẩy. Chỉ còn chút hơi tàn, nhưng mỗi ngày ta những muốn cầm dao giết người hàng chục lần.  Một kẻ mặc đồ bệnh viện màu cháo lòng, đứt hết cúc như ta, mặt gầy má hóp mà múa dao giết người, kể cũng là cảnh hấp dẫn đáng xem đấy chứ. Giết xong cái lũ vô đạo ấy, ta sẽ tự giết ta và có thể em nữa, vì ta cũng nổi điên lâu rồi và một người cứ nai lưng ra mà phục vụ một kẻ điên vô dụng đằng nào cũng chết như ta thì còn đáng sống nữa không. Mỗi khi thấy người bệnh bị hắt hủi, mạt sát, thấy những bàn tay héo hon gầy guộc run rẩy rút phong bì đút lót, là ta lại nổi điên. Hoá ra ta cũng có máu giết người. Em nói bây giờ ai cũng trở nên hung hãn khác thường. Ta cũng thế thôi. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng chắc ta sẽ không giết em đâu. Làm sao có thể chém vào cái cổ ba ngấn trẻ cả trăm năm như cái cổ của em được nhỉ. Cái cổ ta đã dành cả đời để hôn và để có cảm hứng sống.

Thế thì em sẽ bỏ đi ngay khi ta ra viện và ngủ một giấc thật dài cho bõ chứ. Em không thể ở cùng với cái giống người hung hãn như ta. Ta cũng đã nói với em rằng ta không thể đến bệnh viện để nhìn cảnh những người bị cụt chân, vỡ đầu, máu me lênh láng, nằm suốt đêm kêu xin van lạy trên chiếc cáng ngoài hành lang bệnh viện. Khách ở chiếc khách sạn khổng lồ quái gở này quá đông. Mỗi ngày là một chuyến tàu tốc hành chở đến bệnh hoạn và tai nạn. Khách đi tàu còn chen chúc thêm những kẻ chết mòn trong chất độc tẩm ướp vào đồ ăn rẻ và áo quần đang ùn ùn chở về từ bên kia biên giới, vì bụi bẩn và khí thải, rồi đang tự diệt chủng vì tai nạn giao thông và nhiều thứ hay ho khác. 

Hành khách đông không đếm xuể, trên những con tàu chết chóc. Họ nằm đấy, tha hồ kêu khóc rên siết. Nếu người nhà không tống tiễn họ vào giường bệnh bằng một phong bì, họ sẽ chết. Mà ta mong họ chết đi cho rảnh nợ. Như ta đã từng mong ta chết vậy. Có hay gì ngâm mình mãi trong những vũng lầy này.  Tất cả đã chai sạn, tim đã luyện thành gang thép. Máu chỉ về tim ấy khi nghe tiếng xào xạc của đồng tiền.

Ngừng đi. Sao em cứ khóc. Một cậu bé tám mươi ba tuổi chết thì có gì đáng tiếc.  Ta đã sống quá dai dẳng trên cõi này. Xưa nay em vẫn cứ hay khóc thế mà thôi. Ngày ngày em nấu nướng, giặt giũ, chăm bẵm. Em nhìn và nghe ta đọc thơ như nghe một đứa trẻ. Em bao dung. Em lượng hải hà. Em là kẻ độc ác. Em níu giữ ta với cuộc đời này quá lâu. Một cuộc nhảy cóc khổ hạnh.

Lẽ ra, ta đã được ngậm món lộ phí này mà qua sông Mê từ rất lâu rồi, nếu không có em ngăn ta lại.

Ta chỉ muốn làm một đứa trẻ. Một kẻ đồng ấu ngay giữa tuổi hai mươi. Rồi ba mươi rồi bốn nhăm rồi năm mươi rồi bảy mươi. Trời để ta sống lâu là trời đày ta đó. Ta đâu muốn trải bể dâu.

Đừng khóc nữa em, người đàn bà thương khó. 

Dưới tấm vải liệm lạnh lẽo của bệnh viện, ta chợt thấy nhồn nhột. Hình như khi tắm nước thơm cho ta, em còn quên một vật nho nhỏ.

Vật đó nằm ở khuỷu tay ta. Thâm và cứng. Như một con vắt đã chết tái. Nhưng không để ý kỹ thì không biết. Tay ta trắng, dày, hồng và mịn. Ngoài nhìn lành lặn như không xây xước. Cha ta đã lặng người khi nhìn thấy bàn tay của ta. Người nói bàn tay này sẽ an nhàn và không phải chạm tay đến gươm đao giết người.

Riêng ta biết. Em biết. Và chị Hồng ta thì biết.

Đó là vết cắt ngang động mạch. Khi em tìm thấy ta. Trong cái lô cốt mà ta đã tự giam mình.

Ta đã giam mình được bao lâu ? Ta không biết. Ta chỉ đếm ngày nắng. Ta không đếm ngày mưa.

Lần đầu tiên ta vào xà lim, ta chưa có em. Trước khi tự giam mình trong chiếc xà lim chật hẹp tại gia, ta sửa soạn đã chu đáo. Một chiếc giỏ bé xíu, đủ để đựng gạo rang và nước. Khi đói, ta thả giỏ xuống. Chị ba ta bỏ vào đó vài nắm gạo rang. Nếu là cơm hay thức ăn khác, ta sẽ dốc tuột giỏ xuống và nhịn đói. Ôi ta làm khổ chị ta biết bao nhiêu. Một kẻ thấy mình bất lực, tự giam trong xà lim để trừng phạt.  Nước uống cũng là nước gạo rang. Ta nhai nuốt chầm chậm để chầm chậm qua ngày.

Ta giam mình vào đó, sau bữa cha ta và mẹ ta bỗng dưng bị người ta đuổi ra khỏi nhà. Cha ta chết trong hắt hủi và bệnh tật mà ta không thể làm gì được. Người bị lôi xềnh xệch ra khỏi gian nhà đầy sách và đàn và sáo cùng chiếc tủ to bằng cả gian nhà chứa đầy ngăn kéo đựng các vị thuốc bắc.   Rồi cha ta và mẹ ta, hai người ngơ ngẩn đi về hai hướng. Họ không cắt nghĩa nổi điều gì đã xảy ra. 

Cha ta phải để lại hết quần lành áo tốt. Rách rưới lỗ chỗ như tổ ong, không còn chốn nương thân, người đi ở nhờ con rể. Nhà con rể cũng bị cướp đoạt, chỉ còn chiếc vại mẻ. Con rể bị chết trong tù ngục của cái chính quyền mà anh ta và chị ta cùng các anh em của anh đã hiến của cải và máu xương để dựng nên. Anh rể ta chết dưới lưỡi rìu vung lên từ các đồng chí của mình. Cha ta bị tra tấn, chết trong ốm đói và tủi hận.

Ta đã giam mình vào xà lim ấy sau khi chị ta, người chị thắt đáy lưng ong, miệng cười ngơ ngác, đẹp nhất vùng. Bao nhiêu tri phủ rồi quan đầu triều đánh tiếng mối mai đều từ chối, chỉ tính chuyện hiến mình cho độc lập tự do và người cày có ruộng. Rồi một đêm nắm tay đồng chí vào sinh ra tử có nhau, trở thành vợ chồng. Lấy nhau rồi khi giành được chính quyền, đã tưởng là từ nay dân chủ cộng hoà độc lập tự do hạnh phúc, thì lại bụng chửa vượt mặt chạy đôn đáo đưa cơm cho chồng bị bắt đi đày nơi rừng thiêng nước độc. Chị được gì nhỉ ? Của cải lớn nhất mà chị có là một cái dạ dày trống rỗng và bệnh hậu sản mòn. Nhịn cho người khác ăn là sự nghiệp của chị. Nhịn ăn nuôi chồng trong lao tù. Thời trước, chồng chị bị đày biệt xứ trong những nhà tù chốn rừng thiêng nước độc thuộc địa. Còn thời sau, may mắn hơn cho chị, chồng chị chỉ bị các đồng chí bần cố nông bỗng dưng bắt quỳ gai mít phơi nắng ngoài sân đình, bị cả làng nhảy vào mặt xỉa xói là thành phần bóc lột rồi trói chân tay, giam vào nhà kho đợi xử tử. Những gian nhà kho nhung nhúc rắn rết thì ở đâu cũng có. 

Ta đã buộc mình ở đó, sau khi thấy chị đói ăn vàng mắt. Nếu không có đứa con nhỏ mới sinh, đương nhiên là chị ta nhảy xuống bến Đò Oan. Đã nhiều lần, ta nhìn thấy đuôi mắt chị. Chị âu yếm nhìn sóng nước bến đò Oan. Chị nghĩ đến những người oan khổ đã chọn nơi này để giải thoát kiếp nạn. Chị cuối cùng cũng không dám chết. Và chị bị hậu sản mòn.  Cả đời ta đã trôi qua trong một góc trái tim tê lạnh, khi nghĩ đến đôi mắt của chị ta.

Ta giam mình vào xà lim của ta, để tự cắt nghĩa: “Cái gì thế nhỉ?”.

Chị ta đã cứu ta ra khỏi xà lim, bằng đôi mắt trũng sâu của chị. Chị xanh rớt. Tay bế đứa nhóc mới sinh. Nó dài như một cái giẻ rách. Chị đến trước cửa xà lim ta. Chị nở nụ cười ngây thơ ở tuổi bốn mươi lăm. Thân chị chẳng còn thịt,  chỉ còn da. Mà cái đứa trẻ trên tay chị cũng toét miệng cười ngây ngô.

Trời ạ. Ta ra khỏi xà lim. Tóc ta bạc trắng. Tóc chổng ngược lên trời như rễ cỏ. Chân ta sụm xuống. Nắng và gió. Ta thấy ngoài kia tiêu điều như vừa qua một trận lốc dữ dằn.

 Em biết không.

Em thì em biết rõ lắm về cái vệt nâu như một con vắt chết tái, đang cồm cộm lên dưới lần vải liệm của ta này, vì cái ngày đó cũng chưa xa.

Khi đó, ta đã là một ông già.

Thế mà cậu bé ham chơi trong ta vẫn trỗi dậy. Nó thích nghịch ngợm. Nó không ở nhà ngâm vịnh cùng một ông già. Nó bỏ thân mình già nua của ta để đi chơi.

Nó ra trường học. Nó tới cửa hàng. Nó đi thăm thú người quen cũ. Nó đến công sở. Nó bật ti vi. Nó nghe đài đọc báo. Nó tới nhà chùa xem người ta dâng cúng kiếng. Nó tới nhà thờ nghe người ta cầu nguyện. Nó đi khắp chốn khắp nơi. Nó thăm thú những tượng đài. Nó thật mải chơi.

Rồi nó trở về. Lúc đó, vào giữa trưa. Ta thấy rùng mình, lên cơn sốt rét. Thế là đứa trẻ mải chơi đã trở về. Nó trở nên còm nhom. Nó run lẩy bẩy, nép vào thân ông già này.  Nó van vỉ ta rằng hãy giam hãm nó. Van vỉ ta rằng hãy mau mau chết đi. Hoặc chí ít, cũng đừng bao giờ để nó xổng ra ngoài nữa.

Đứa trẻ tươi tốt ấy mắt bỗng đỏ ngầu. Và nó bất giác sai khiến cánh tay già nua của ta. Cánh tay già nua của ta cầm lấy con dao thái rau. Rồi chúi vào một xó. Rồi nhanh nhẩu đoảng, nó cắt ngang động mạch ở khuỷu tay ta.

Ta nhìn thấy máu chảy. Ngoài cái màu đỏ đáng ghét ra thì cũng không có gì ghê gớm như ta tưởng. Ta thiu thiu ngủ. Thì cứ chết đứa trẻ. Nó sợ hãi. Hết chỗ ẩn náu. Thì chi bằng cho nó cùng tấm thân già nua này qua bến sông Mê. Sớm ngày nào hay ngày ấy.

Thế mà em lại về. Tiếng guốc. Ta nghe như trong mơ. Rồi thì là tiếng kêu khóc. Rồi cấp cứu. Rồi em gọi chị Hồng đến. Chị chẳng thương xót, chẳng dỗ dành. Giang thẳng cánh tay gầy guộc tát cho ta một chiếc. Nẩy đom đóm mắt.

Ta mỉm cười.

Thế mà sống thật. Thế rồi thì lại giỏ gạo rang và sợi dây. Ta tự giam mình vào xà lim lần thứ hai.

Em không biết đâu. Những ngày trong xà lim đó là những ngày hạnh phúc.

Ta thấy cha ta, mẹ ta. Ta thấy các cô dì chú bác. Ta thấy các đồng chí môi hở răng lạnh nhưng máu chảy mà ruột không mềm.

Cha ta và mẹ ta nói : Con ơi ! Con là đứa trai duy nhất trong nhà. Đích tôn đấy. Nay chúng ta chết đi mà chẳng có chỗ để thờ. Căn nhà cũ sau sửa sai người ta vẫn cướp thế, không trả lại. Sao con không về tìm nền nhà cũ ? Ta còn ba rương sách và một cây đàn tỳ bà chôn ở dưới đó.

Ta thật bất hiếu. Ta biết cái nền nhà đó. Mấy chục năm nay rồi. Những bàn chân bẩn thỉu giẫm lên. Ta chẳng thể trở về nơi đó, đào bới cái nơi ấy lên mà tìm đàn và sách cho cha. Thì ta trốn trong xà lim. Suốt đời, ta đã mang bụng chửa. Cái thai trong bụng là rương sách và cây đàn tỳ bà của cha ta. Chửa mà không đẻ được. Thế thì chết đi cho đỡ đau.

Thế thì đứa trẻ trong ta cũng được giữ yên.

***

Ta ơn em. Em biết không.

Nhưng mà cứ thế. Nay thân xác ta đã được sang phòng ướp lạnh. Bệnh viện này đang đập bỏ nhà xác để xây lại. Kinh phí cũng chẳng đáng bao nhiêu. Chi nhiều cho bệnh viện làm gì. Những kẻ phải lê thân vào bệnh viện này là những kẻ yếu. Họ chỉ có một chiếc mồm. Chiếc mồm đang bận rên rỉ vì đau đớn thì làm gì còn hơi mà kêu ca chỗ này chỗ khác. Cứ để tiền đó mà xây bao nhiêu chỗ nguy nga mà bọn thường dân cùng nghệ sĩ như ta cả một đời chẳng thể bén mảng vào.

Và như thế thì ta đang nằm đây, sang cái nhà xác này, do con trai ta, cũng nhờ ân oán mấy năm làm báo, đã liên hệ được cho ta một chỗ nằm. Ta nằm ngoan trong ngăn lạnh. Giữa những cái xác khác.

 Xếp hàng. Đợi đến lượt. Thế là trật tự. Muôn năm. Thân xác ơi ! Linh hồn ta chào mi. Hỡi kẻ thân quyến. Ta gửi lại các người một thí dụ về thân xác.

Bây giờ thì ta ngậm đồng tiền, tung tẩy gặp kẻ lái đò qua sông Mê.

Một người đàn bà áo nâu. Chân choãi ra, nhỏ thó như đứa bé mươi tuổi, nách cắp tám đứa con, đang cầm tờ tem phiếu, vẫy gọi ta bên này sông.

Ôi ! Chị Phượng. Chị chết trước em hai mươi mốt năm, sao giờ này chị còn nấn ná nơi đây ?

Chị Phượng không trả lời, chỉ khóc.

Bên kia, có một người áo the nâu, khăn tím, tóc vấn trần. Miệng nở nụ cười ngây ngô rạng rỡ.

Chị Hồng ! Chị qua bên kia bờ rồi. Kìa trong tay chị là chiếc roi ngũ sắc. Dải mây vấn vít tha thướt. Chị đi chăn mây sao ? Cánh đồng mây lộng lẫy kia là của chị.

 Cho em đi chăn mây cùng chị nhé. Rồi ta sẽ đón chị Phượng qua. 

Tội nghiệp chị Phượng. Tám đứa con. Đói khó. Giấc mơ có đủ tem phiếu để nuôi con đã đông cứng trong chị. Chị chết vào ngày ấy, chưa có nổi một đồng tiền để ngậm trong miệng mà qua bến sông Mê.

Kìa thấp thoáng bóng cha và mẹ.  Nào, cha hãy đưa tay cho con. Móng tay dài nửa tấc đã bị bật máu. Mà tay cha vẫn gẩy đàn. Trong không khí. Chẳng có cây đàn nào. Mà tiếng đàn cha vẫn vang. Đục trầm níu sa ruột.

Nào đừng gẩy đàn nữa. Cha. Đưa tay đây. Dìu con qua sông. Rồi ta về thăm nhà cũ. 

Hôm nọ, cháu Bảo ở Hải Phòng kể chuyện. Con cho rằng là nó nằm mơ. Nhưng ta cứ thử về xem.

Nó nói, ở nhà cũ của cha mà đã bị người ta cướp mất, đêm nào cũng văng vẳng tiếng đàn sáo, tiếng ngâm thơ và múa hát.

Và bóng một người đàn ông cao gầy, tóc búi, cứ chấm bút lông vào mạch máu đang chảy ở khuỷu tay mình mà viết lên những trang giấy trắng./.

VTH