Từ Thức: Lộc Hưng, 5 năm sau
Cách đây đúng 5 năm, tháng 1-2019, một lực lương quân đội, công an hùng hậu tới tấn công khu Lộc Hưng, quận Tân Bình, nơi người dân di cư từ miền Bắc vào đã xây dựng, lập nghiệp từ 1954.
Trên 500 căn nhà bị giật sụp, khu khóm khang trang trở thành gạch vụn, tài sản của cả một đời thành mây khói. Toàn bộ cư dân bị trục xuất bằng võ lực, chỉ vì đất hoang dã của Lộc Hưng ngày xưa bây giờ trở thành đất quý.
Sau nhiều cuộc tranh đấu quyết liệt, nhiều người tù tội, trở thành vô gia cư, tuyệt vọng, gõ mọi cửa để kiện tụng, phản kháng, kêu xin, một văn kiện của trung ương đã yêu cầu chính quyền địa phương, tạm thời ‘’giữ nguyên hiện trạng khu đất, không tiến hành xây dựng rào chắn’’ trong thời gian người dân khiếu nại chưa được giải quyết.
Ngày 7/12/2023, chính quyền địa phương, bất chấp những cam kết nói trên, đã mang một lực lượng hùng hậu tới Lộc Hưng. Từ 5 giờ sáng, 4 xe cơ di động chở người tới bố ráp, dựng rào sắt, phong toả hết khu vực, trong khi một nhóm khác rào đài Đức Mẹ.
Chuyện kiện tụng giữa con kiến và củ khoai vẫn tiếp tục…
Để kỷ niệm ngày đánh chiếm Lộc Hưng, xin đăng lại một bài viết 5 năm trước.
***
LỘC HƯNG. CÔ BÉ ÁO ĐỎ
Hai hình ảnh lởn vởn trong đầu, mỗi lần nghĩ tới Lộc Hưng.
Thứ nhất, video quay cảnh một người cha trèo trên đống nhà sập, té lên té xuống, đi tìm những mảnh đồ chơi của con bị nghiền nát.
Thứ hai, hình một cháu gái áo đỏ buốn bã ngồi nhìn nhà mình bị kéo sập.
Cái gì diễn ra trong đầu một đứa bé ngồi nhìn cả thế giới của mình sụp đổ. Trong một xã hội bất nhân, tình cảm là một xa xỉ phẩm, ai bận tâm tới cái gì diễn ra trong đầu một đứa nhỏ?
Căn nhà là cả thế giới của đứa trẻ, là tổ ấm, là tình nghĩa gia đình, là tình yêu của mẹ, là kỷ niệm với cha, là những tiếng cười đùa với anh chị em. Tất cả thành mây khói.
Cái sụp đổ, mất mát, tan vỡ ấy sẽ lưu lại suốt đời đứa nhỏ, không có gì gột rửa được trong tâm não.
Không có gì sống lâu, vĩnh viễn, hơn những kỷ niệm thời thơ ấu.
Càng về già, người ta càng thấm thía điều đó. Người ta quên chuyện xẩy ra hôm trước, nhưng nhớ những kỷ niệm thời thơ ấu.
Giáp Tết, quân ta đổ bộ, đánh chiếm khu vườn rau đã hoàn toàn thắng lợi, đã san bằng sào huyệt của địch. Trong một đêm, cả một vùng trước đó sôi sục sức sống trở thành một đống gạch vụn.
Từ 1954, dân di cư với mồ hôi nước mắt, đã biến một khu đất hoang thành một làng thịnh vượng, với trường học, nhà thờ, những ngày hội hè và tiếng reo hò của trẻ em.
Cái bất hạnh của dân Lộc Hưng là những mảnh đất hoang ngày xưa trở thành đất quý, cướp được, xây cao ốc, khách sạn sẽ biến tấc đất thành tấc vàng.
Nhìn cháu gái ngồi trước ngôi nhà, khu phố của mình bị san bằng, tự nhiên nghĩ tới một truyện ngắn của Nam Cao, tựa là ‘’Mua Nhà ‘’.
Đó là văn chương Việt Nam, cái thời người ta chưa nuôi văn nghệ sĩ như nuôi heo, người viết văn không tủi thân vì nhận được ít bổng lộc, không than vãn vì không được vỗ béo để có tâm huyết viết bài phục vụ chế độ. Cái thời người ta còn viết văn để phơi trần thực tế xã hội, để diễn tả cái nhức nhối, ngoài đời và trong đầu.
Cái thời chưa vô cảm.
Nam Cao kể chuyện mua nhà.
Ngôi nhà, đúng hơn là túp lều của tác giả bị gió bão giựt sập. Phải nghĩ đến chuyện dựng một túp lều khác cho vợ con có chỗ trú ẩn. Có người dụ bán nhà, giá rẻ, vì chủ nhà thua bạc, chỉ còn căn nhà bán để gỡ.
Tác giả vay nợ để khỏi mất một cơ hội tốt. ‘’Tôi chạy ngược chạy xuôi. Chỗ thì lãi năm phân. Chỗ thì lãi sáu phân. Cùng qúa, tám phân cũng lấy liều‘’. Ngày đến gỡ nhà, tác giả thấy một anh đã thua bạc hết tiền, bán nhà ‘’ nằm thườn trên một cái giường tre chiếu rách, bẩn thỉu. Đứa con bé ngồi ngay dưới đất, ôm cái chân giường, rên. Nó đau bụng từ sáng sớm. Đứa con lớn vừa cạu nhạu, vừa đấm lưng em thùm thụp ‘’. Người mua nhà xin chủ nhà dọn dẹp đồ đạc để thợ dỡ nhà.
Anh ta “cười chua chát: Đồ đạc thì có gì mà dọn? Chỉ có một cái giường này. Cứ quẳng bố nó ra ngoài kia cho tôi, rồi dỡ đi. Hắn đứng dậy, bảo con: Chúng mày cũng đứng lên. Sang nhà bác Vi nằm nhờ”.
Một lúc sau ‘’chẳng biết đã gởi em cho ai được, đưa con gái lân la gần tôi xem dỡ nhà…Nó gầy ốm quá. Cổ tay cổ chân chỉ con con. Mặt chau chau. Quần áo rách lượt thượt. Răng nó cứ nhe ra một cách thưong hại lắm. Tôi tự nhiên ngám ngẩm. Tôi thở dài ngán ngẩm…’’
Khi người ta bắt đầu dỡ nhà, “con bé bừng mắt. Nó không nhe răng ra nữa. Đôi môi nó bụm lại. Hai má phình ra. Cứ thế, nó chẳng nói, chẳng rằng, chạy bình bịch sang hàng xóm…Bỗng tôi nghe một tiếng trẻ con nức nở và hờ: -Mẹ ơi!‘’
Giữa con bé của Nam Cao và cháu gái áo đỏ ở Lộc Hưng, ba phần tư thế kỷ đã trôi qua. Bao nhiêu chiến tranh tương tàn đã làm tan hoang đất nước. Bao nhiêu triệu người đã bỏ mạng trong cuộc chiến giữa người cùng máu mủ, trên đường chạy giặc, vượt biển…Máu chẩy thành sông, xương chất thành núi, để xây dựng thế giới đại đồng, để xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Tất cả những bi kịch ghê rợn, để được như ngày nay, “đất nước chưa bao giờ tốt đẹp như thế này‘’. Ông Trọng không phải hoàn toàn vô lý. Với một nhóm du đãng đói rách từ trong rừng ra, tự nhiên ngồi trên một đống đô la, ngồi lên đầu trên cổ dân, quả thực “đất nước chưa bao giờ tốt đẹp như thế này”.
Nhưng với gần 100 triệu người khác, những người dân cùng khổ của Nam Cao? Với những cô bé áo đỏ ở Lộc Hưng?
Theo lời ông trùm công an Tô Lâm, ở thế kỷ 21, còn tệ hơn nữa: có người tìm cách vào tù ngồi chơi xơi nước, vì ở bên ngoài không kiếm nổi mỗi tháng 17 kg gạo, 15 kg rau.
Cái gì khác nhau giữa thân phận người dân thời đại Nguyễn Phú Trọng so với thời thực dân cách đây gần một thế kỷ?
Nam Cao: “Có những ông bố, bà mẹ lụ khụ, chỉ vì thương con nghèo quá không có tiền chôn cất mà không nỡ chết”. Một cụ bà Lộc Hưng, có thân nhân tàn tật đau yếu, bị giựt sập nhà, bị quẳng ra lề đường, tâm sự: chỉ mong người thân chết trước, vì nếu tôi chết trước, ai lo nuôi nấng, chăm sóc họ, họ ngủ đâu, ăn cái gì để sống? Thoạt nhìn, chẳng có gì thay đổi.
Gần một phần ba thế kỷ sau, dân Việt Nam vẫn tiếp tục thân trâu ngựa. Nhưng nhìn lại, suy nghĩ một chút, có sự thay đổi ghê rợn, và cái thay đổi đó, nghĩ cho cùng, chính là cái bi kịch lớn nhất của dân tộc Việt Nam. Nó đã, và sẽ kéo theo, dồn dập, những bi kịch khác.
Cái thay đổi ghê rợn, là sau ba phần tư thế kỷ, người Việt Nam đã đánh mất nhân tính, trở thành những cái máy vô cảm.
Cái khác nhau là, trong Nam Cao, người mua nhà nhìn bé gái, hối hận, ray rứt, tự oán trách mình đã làm chuyện ác.
Ngày nay, người ta kéo hùng binh, du đãng đâm thuê chém mướn, tới phá nhà cửa của dân nghèo, không một ánh mắt tới cháu gái ngồi buồn bã trước cuộc đời tan vỡ. Tệ hơn nữa, coi đó chỉ là chuyện bình thường dưới huyện, và ngạc nhiên tại sao có người bận tâm?
Và người ta huy động báo chí nhà nước để rêu rao đó là khu nhà bất hợp pháp. Làm như những túp lều đáng giá bạc triệu đô la của bầu đoàn thê tử đầy tớ hoàn toàn là đất hợp pháp, không phải chẹn cổ, bóp họng người dân mà có.
Cái khác nhau là cách đây gần một phần ba thế kỷ, người ta còn biết xúc động, biết xấu hổ. Còn có lương tâm. Cái anh mua nhà của Nam Cao khởi đầu bằng sự áy náy: “Tôi có quyền gì mà cấm hắn? Hắn không bán cho tôi thì bán cho người khác. Tôi để lỡ một dịp may là tôi ngu. Vậy thì tôi mua cái nhà ‘’.
Hết áy náy, hay để đỡ áy náy, anh ta tìm cách bào chữa, triết lý vụn, để an ổn lương tâm: “Nghĩ ngợi làm gì nữa? Ở cảnh chúng ta lúc này, hạnh phúc cũng chỉ là một cái chăn hẹp. Người này co thì người kia bị hở. Đâu phải là tôi tệ, nhưng biết làm sao được? Ai bảo đời cứ khắt khe vậy? Giá người ta vẫn có thể nghĩ tới mình mà chẳng thiệt gì đến ai”.
Nhưng mặc dù tìm mọi cách trấn an, người mua nhà vẫn dằn vặt “Tim tôi động một cái giống như bước hụt. Rồi nó đập loạng choạng.Tôi hơi lảo đảo. Bây giờ tôi không lẩn trốn những ý nghĩ của tôi đựợc nữa. Tôi ác quá! Tôi ác quá!”
Cái dằn vặt, thao thức đó, cái lòng trắc ẩn đó, là cái thắng để cái ác không ngự trị, để con người ngần ngại khi làm chuyện bất nhân, để xã hội còn là một xã hội tử tế.
LƯƠNG TÂM
Cái lương tâm đó, người Cộng Sản đã đánh tan hoang.
Bằng cả một hệ thống giáo dục, bằng cả một nhân sinh quan mới, bằng lối hành xử tàn tệ giữa người với người. Cái bất nhân trở thành một chuyện bình thường. Cái vô cảm đó là hậu quả tất yếu của một xã hội băng hoại, đầy những bất hạnh.
Antonio Gramsci giải thích: “Cái bất hạnh có hai hậu quả: thường thường nó dập tắt tất cả tình thương của chúng ta với những người bất hạnh, và không hiếm hơn, nó dập tắt tất cả tình thương nơi những người bất hạnh đối với những người bất hạnh khác” (Le malheur a habituellement deux effets: souvent il éteint toute affection envers les malheureux, et non moins souvent, il éteint chez les malheureux toute affection envers les autres) (*)
Trong trường hợp Lộc Hưng, cái vô cảm đó có hai khuôn mặt.
Thứ nhất, cái vô cảm giữa những người bất hạnh. Khi tất cả đều là nạn nhân, bị bóc lột tới xương tủy, bị dày xéo tháng này qua năm khác, người ta không còn lòng trắc ẩn ngay cả với người đồng cảnh. Người ta khoanh tay nhìn, hy vọng chuyện đó sẽ không đến với mình.
Thứ hai, cái vô cảm giữa những người được chế độ ưu đãi đối với những người thấp cổ bé miệng. Anh ta không còn một chút day dứt lương tâm. Anh ta không muốn duỗi chân ra để hưởng cả cái chăn. Anh ta đá văng người khác ra đường để chiếm cả chăn, cả giường, cả phòng ngủ. Tệ hơn nữa, kinh hoàng hơn nữa, anh ta coi đó là một chuyện bình thường.Người ta không mua nhà nữa, người ta vác súng, kéo lâu la đi cướp nhà. Và ngạc nhiên, một cách thành thực, tại sao có người để tâm tới chuyện rất bình thường dưới huyện.
Một câu hát của Jacques Brel: ”Chez ces gens là, on ne pense pas. On compte ” (Nơi bọn đó, người ta không suy nghĩ. Người ta chỉ đếm (tiền)”.
Những người cướp đất Lộc Hưng không nhìn thấy cháu bé áo đỏ. Trước khi ngủ, họ không ray rứt, dằn vặt. Họ chỉ tính xem sẽ chia nhau được bao nhiêu. ”On compte”. Một dân tộc không còn lương tâm là một dân tộc tự hủy.
Nhà cửa có thể cất lại được, nhưng cái ray rứt của lương tâm, khi nó đã chết, sẽ không còn phương cách gì cứu vãn nổi. Và dân tộc chết chung, cùng một lúc với nó. Đó không phải là một cái chết tình cờ. Đó là một cái chết đúng quy trình. Chế độ độc tài nào cũng nhắm tiêu diệt đôi chút lương tri còn leo lét trong lòng người dân, để biến người dân thành những cái máy vô cảm, không còn sợ lương tâm, chỉ biết sợ và thần phục sức mạnh của kẻ cầm quyền.
Nhìn cô bé áo đỏ, không có người nào đến đập phá nhà cửa ở Lộc Hưng tự sỉ vả: “tôi ác quá !, tôi ác quá!”
L’abbé Pierre, vị linh mục Pháp đã bỏ cả đời làm việc nghĩa, nói: ”Cái bệnh hiểm nghèo nhất là sự vô cảm, dửng dưng”. (La maladie la plus mortelle est l’indifférence)
Trong đôi mắt buồn của cháu bé ngồi cô đơn, cả một cái buồn của một dân tộc đang chết đuối.
Paris 1/2019
Từ Thức
(*) Gramsci, tất cả là một vấn đề văn hóa