Hoàng Tuấn Công: Con Rồng trong ngôn ngữ dân gian

Rồng thời nhà Nguyễn ở Hoàng thành Huế

Nhân dịp năm Thìn, xin trân trọng gửi tới độc giả của Tuấn Công Thư phòng bài viết này. 

Rồng là con vật duy nhất trong 12 con giáp không tồn tại trong thực tế, nhưng nó vẫn mang hình dạng, tập tính của một con vật bằng xương bằng thịt và xuất hiện khá nhiều trong lời ăn tiếng nói dân gian, điển cố, điển tích.

Tương truyền, khi trời sắp mưa, rồng gầm lên thành sấm. Thế nên ví thanh âm gì hùng tráng thì gọi là Long minh sư hống 龍鳴獅吼 (Rồng gầm, sư tử rống). Mây là môi trường sống của rồng. Mây với rồng như nước với cá, nên có thành ngữ Như cá gặp nước như rồng gặp mây; Rồng mây gặp hội; Gặp hội mây rồng; Long vân gặp hội; Long vân khánh hội,…ý chỉ cơ hội may mắn, vua tôi, trai gái gặp nhau, hoặc người đi thi đỗ đạt, vinh hiển.

Rồng có thể hút cạn sông biển, nhả mây phun mưa, làm ra phong ba bão táp. Bởi thế, thành ngữ Việt có câu Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa; Ăn như rồng cuốn, làm như cà cuống lội ngược. 

Trong mây, rồng ẩn hiện, biến hoá khôn lường, nên thành ngữ Thần long kiến thủ bất kiến vĩ 神龍見首不尾 (Rồng thiêng thấy đầu mà không thấy đuôi), ví với người có hành tung bí ẩn. 

Rồng và hổ là hai con vật thuộc dòng giống cao quý, sức mạnh phi thường. Bởi thế, theo dân gian, tính di truyền của rồng và hổ rất mạnh. Tục ngữ Việt có câu Trứng rồng lại nở ra rồng, Hổ phụ sinh hổ tử. Trong khi tục ngữ Hán lại cho rằng Long sinh cửu tử, cửu tử bất thành rồng – 龍生有九子,九子不成龍, nghĩa là rồng sinh chín con, không phải cả chín con đều thành rồng; hay Nhất long sinh cửu chủng, chủng chủng các biệt 一龍生九種, 種種各別 – Một rồng sinh chín con, mỗi con mỗi khác (đồng nghĩa Cha mẹ sinh con trời sinh tính). Quan niệm của người Việt và người Trung Hoa khác nhau chăng? Thực ra giống hệt nhau, bởi đây chỉ là thủ pháp của dân gian, ý nói, đến dòng giống như rồng mà sinh con còn không giống nhau, huống chi người!

Rồng là con vật thượng đẳng. Nó ẩn mình dưới vực sâu, vẫy vùng chốn sông dài biển rộng, bay lượn trên mây cao. Bởi thế, thành ngữ Rồng lội ao tù, Rồng vàng tắm nước ao tù,… ví với người anh hùng lúc sa cơ, bị kìm hãm bó buộc, không có điều kiện thi thố tài năng. Long khuất xà thân 龍屈蛇伸 (Rồng co rắn duỗi), hình dung quân tử thất thế, còn tiểu nhân thì thừa dịp đắc chí. 

Với con rồng thì phần đầu của nó đồ sộ, nhiều bộ phận và đẹp nhất, trong khi đuôi rắn thì cấu tạo cực kì đơn giản. Bởi vậy, thành ngữ Long đầu xà vĩ 龍頭蛇尾 (Đầu rồng đuôi rắn), ám chỉ việc gì mở đầu thì to lớn, kết thúc không ra gì, tương tự Đầu voi đuôi chuột.

Rồng là con vật thần dị, sức mạnh vô song. Bởi thế, tướng rồng luôn được xem là quý tướng: Long hành hổ bộ (Đi như rồng bước như hổ), Long tương hổ bộ 龍驤虎步 (Rồng lướt hổ đi) chỉ tướng mạo, phong thái của bậc đế vương; Long mi phượng mục 龍眉鳳目 (Mày rồng mắt phượng) hình dung tướng mạo không tầm thường; Long mi báo cảnh 龍眉豹頸 (Mày rồng cổ báo), là tướng mạo của lực sĩ; Long đằng hổ khiếu 龍騰虎嘯 (Rồng bay hổ gầm) ý chỉ thanh thế rất ghê gớm,… 

Rồng và hổ đều sở hữu sức mạnh tiềm tàng, dũng mãnh, nên long-hổ thường sánh đôi với nhau, thành một cặp đối nhau. Câu Sinh long hoạt hổ – 生龍活虎, ví sự khoẻ mạnh, tràn đầy sinh lực như rồng như hổ, hoặc nói về văn chương sinh động, có sức mạnh lay động lòng người; Tàng long ngoạ hổ 藏龍臥虎, nói nhân tài đang ẩn náu chờ thời, hoặc chưa được phát hiện; Long tranh hổ đấu 龍爭虎鬥, chỉ hai bên thế lực ngang nhau, tranh đấu quyết liệt. 

Dưới cái nhìn của nhà phong thuỷ, Long bàn hổ cứ 龍爭蟠虎踞 (Rồng cuộn hổ ngồi) chỉ sự uy dũng mà không lộ tướng, chính là thế đất quý; hoặc ví với vẻ hiểm yếu, hùng vĩ của cuộc đất đế vương, nơi anh hùng hào kiệt chiếm cứ. Long bàn phượng vũ 龍盤鳳舞 (Rồng cuộn phượng múa), ví hình thế núi sông uốn lượn, có khí tượng của đế vương. Long đàm hổ huyệt 龍潭虎穴 (Vực rồng hang hổ), chỉ vị trí, địa thế cực kì hiểm ác. Tả thanh long hữu bạch hổ (bên Đông là rồng xanh, bên Tây là hổ trắng) là thế đất tối quý với cả dương trạch và âm trạch.

Rồng cũng thường đi với phượng – loài chim thần trong truyền thuyết – để tạo thành một cặp tương xứng. Long phi phương vũ 龍飛鳳舞 (Rồng bay phượng múa), hình dung sự phóng khoáng, hoạt bát; nét bút thư pháp hùng kì, sinh động. Long phượng trình tường 龍鳳呈祥, chỉ việc tốt, việc vui mừng. Long can phượng tuỷ 龍肝鳳髓 (Gan rồng tuỷ phượng, đồng nghĩa Long can báo thai 龍肝豹胎 – Gan rồng thai báo), tỉ dụ thực phẩm quý, rất khó kiếm được. 

Dù là con vật huyền thoại, nhưng rồng vẫn xung khắc với con chó trong “tứ hành xung”: Thìn-Tuất-Sửu-Mùi. Nguyên nhân, dân gian cho rằng, rồng là con vật cao quý, nên nó xung khắc với con chó bẩn thỉu, hôi hám. Tuy nhiên, chó thường được đặt cạnh hổ để tạo nên sự đối lập giữa oai hùng và hèn kém; trong khi rồng và tôm lại được đem ra so sánh để nói về hai đẳng cấp khác nhau. Điển tích Cá chép hoá rồng, kể rằng cá chép và tôm cùng thi vượt Vũ Môn, nhưng chỉ có con cá chép ngậm viên ngọc là hoá rồng. Còn tôm tuy có tài búng càng, co mình bật nhảy tanh tách trên mặt nước để vượt thác, nhưng đến tầng thứ ba thì nó bị ngã đau, tới mức ruột gan lộn lên đầu! Thành ngữ Rồng đến nhà tôm, là một cách nói nhún, ví trường hợp người cao sang đến thăm kẻ thấp hèn; Đầu rồng đuôi tôm, ý chỉ khởi đầu to lớn, kết thúc không ra gì; Rồng lội ao tù tôm cũng giỡn, hàm ý khi bị thất thế thì ai cũng có thể xem thường, kể cả đứa vốn rất hèn mọn, bình thường không thể so sánh với kẻ bị thất thế kia (đồng nghĩa Hổ lạc bình dương bị khuyển khi 虎落平陽被犬欺 – Hổ xuống đồng bằng thì đến con chó cũng coi thường). 

Trong hội hoạ, điêu khắc (dân gian cũng như cung đình), có lẽ rồng là con vật xuất hiện sớm và nhiều nhất trong số 12 con giáp. Tuy nhiên, vẽ rồng cho ra rồng không phải chuyện dễ. Thế nên tục ngữ gốc Hán có câu Hoạ long hoạ hổ nan hoạ cốt 畫龍畫虎難畫骨 (dị bản Hoạ hổ hoạ bì nan hoạ cốt), ý nói vẽ rồng, vẽ hổ thì cái khó nhất là thể hiện được phong cốt rồng hổ. Bởi vậy, thành ngữ Việt có câu Vẽ rồng nên giun, đồng nghĩa với tục ngữ Hán Hoạ long khắc cốc 畫龍刻鵠, Hoạ hổ bất thành phản loại cẩu, ví thử muốn làm điều gì to tát, ghê gớm, nhưng chung quy thất bại, trở thành trò cười cho thiên hạ. 

Nói về vẽ rồng, giỏi nhất phải kể đến Trương Tăng Dao thời Nam Bắc triều. Sách Lịch đại danh hoạ kí của Trương Ngạn Viễn chép, khi trang trí chùa An Lạc ở Kim Lăng (Nam Kinh), Tăng Dao vẽ bốn con rồng trắng lên tường, trông giống như thật. Nhưng khi vẽ mắt rồng, ông không điểm con ngươi. Nhiều người hỏi tại sao không vẽ cho hoàn chỉnh, ông trả lời: “Nếu điểm thêm con ngươi, e rằng rồng sẽ bay mất”. Mọi người cho đó là lời nói xằng, nên cố nài ông vẽ nốt. Chẳng ngờ, khi Trương Tăng Giao vừa lấy bút “điểm nhãn” thì lập tức sấm sét nổi lên, bức tường nứt ra, hai con rồng trắng tức thời cuộn vào mây bay lên trời; hai con không được điểm nhãn thì nằm lại. Dĩ nhiên, câu chuyện chỉ là một cách ca ngợi tài năng hội hoạ của Trương Tăng Dao, chứ không có thật. Về sau, Hoạ long điểm tình 畫龍點睛, hay Hoạ long điểm nhãn, ý chỉ biết khai mở nội dung chính yếu, then chốt, làm cho văn chương, hội hoạ, lời nói trở nên sống động, thuyết phục.

Có thể nói, trong số 12 con giáp, thì Tí, Sửu, Dần, Mão […], Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, đều xuất hiện trong lời ăn tiếng nói dân gian theo kiểu “đa nhân cách”, có cả hai mặt tốt và xấu. Duy chỉ có Thìn-Rồng trong ngôn ngữ dân gian là luôn hiện lên với vẻ đẹp hoàn mĩ, tích cực. Điều này cũng dễ hiểu, bởi rồng là con vật huyền thoại, tồn tại trong hư vô, tự ngàn xưa đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh, vương quyền, sự linh thiêng, cao quý.

Mai hoá long (Điêu khắc dân gian. Sưu tầm và trưng bày tại Tuấn Công Thư phòng)

Cà kê chuyện Rồng

HUYỀN THOẠI RỒNG

Con rồng trông như thế nào? 

Hơn 3000 năm trước, thời nhà Thương đã thấy xuất hiện chữ long 龍. “Thuyết văn giải tự” khi giảng về chữ long cho ta biết tập tính kì dị của con rồng: “Lân trùng chi trưởng, năng u, năng minh, năng tế, năng trưởng, xuân phân nhi đăng thiên, thu phân nhi tiềm uyên”, nghĩa là: Rồng thuộc loài lớn nhất trong các loài trùng có vảy, vừa có thể ẩn mình chốn thâm u vắng vẻ, vừa có thể vẫy vùng nơi biển rộng trời cao, có thể to, có thể nhỏ, có thể thu ngắn, có thể giãn dài, Xuân phân thời bay lên trời, Thu phân thời ẩn dưới vực sâu. 

Rồng là con vật duy nhất trong 12 con giáp không tồn tại trong thực tế. Tuy nhiên, rồng lại mang 9 đặc điểm của 9 con vật khác nhau. Sách “Nhĩ nhã dực” miêu tả rồng, “giác tự lộc, đầu tự đà, nhãn tự thố, hạng tự xà, phúc tự thận, lân tự lí, trảo tự ưng, chưởng tự hổ, nhĩ tự ngưu…”, nghĩa là: Rồng có sừng giống hươu, đầu như lạc đà, mắt thỏ, cổ rắn, bụng giao long, vảy cá chép, móng chim ưng, tay hổ, tai trâu. 

Có rất nhiều giả thuyết về nguồn gốc của con rồng, nhưng tựu trung có hai thuyết phổ biến hơn cả. Giả thuyết thứ nhất, cho rằng con rồng vốn là con rắn. Bởi cho dù rồng mang đặc điểm của 9 con vật khác nhau, nhưng cơ bản nó vẫn mang dáng dấp của một con rắn lớn. Giả thuyết thứ hai, con rồng là con cá sấu “tiến hoá”. Lí do, cá sấu có hình dáng tương tự như rồng, từ bàn chân, móng, da, bụng, cho đến cái đầu thô to, miệng rộng, vây lưng nổi lên lởm chởm, vừa ở nước vừa ở cạn, có thể quẫy sóng đạp nước, thường xuất hiện cùng lúc với phong ba bão táp,…

MUÔN VẠN GIỐNG RỒNG

Tuy là con vật mang màu sắc huyền thoại, nhưng rồng cũng có rất nhiều giống, và tên rồng được lấy để đặt tên cho nhiều sự vật khác.

“Giao” 蛟 hay “giao long” 蛟龍 là giống rồng sống ở vực sâu. Với người Trung Hoa, thì giao long có khả năng “hưng phong tác lãng” (nổi gió, dậy sóng), dâng nước gây nên đại hồng thuỷ. Trong khi với người Việt, “giao long” là con “thuồng luồng” – một loài thuỷ quái có hình dạng của con rắn khổng lồ chuyên ăn thịt người. Nó phân bố khá rộng, từ ao chuôm cho đến sông hồ, vực, thác… Người ta thường đem thuồng luồng ra doạ trẻ con hay tắm ao, tắm sông. Tương truyền, suối Thập ở châu Phù Yên (tỉnh Hưng Hoá cũ, nay là Phú Thọ) chảy gấp như tên bắn, có nhiều thuồng luồng, nên ngạn ngữ có câu “Tuyền năng Thập, phương lập cơ đồ”, nghĩa là Lội qua suối Thập mới lập cơ đồ.

“Thanh long” 青龍, hay “thương long” là giống rồng xanh trú ngụ ở phía Đông, một trong tứ linh, đem đến sự may mắn. Với người Trung Hoa, trong tứ linh thì con rồng xanh đứng cuối: lân, phượng, qui, long; trong khi với người Việt, con rồng lại đứng đầu theo theo thứ tự: long, li, quy, phượng. “Thanh long” được đặt tên cho một loại kiếm báu (Tôn Quyền có 6 thanh kiếm: Bạch Xà, Tử Điện, Tị Tà, Lưu Tinh, “Thanh Long”, và Huyền Giao). “Thanh long đao”, hay “Thanh long yển nguyệt đao” là tên một loại võ khí có hình như trăng lưỡi liềm, khắc hình con rồng. Con tuấn mã, chiến thuyền hay sao Thái Tuế cũng gọi là thanh long.

“Xích long” 赤龍 là giống rồng đỏ, trú ở phương Nam. Trong truyền thuyết, các vị thần tiên thường cưỡi rồng đỏ. Xích long cũng dùng để phiếm chỉ hoàng đế, hoặc tỉ dụ vầng thái dương.

“Bạch long” 白龍 là giống rồng trắng, trú ở phương Tây, thường được dùng để ví với dòng nước cuộn chảy dâng trào dữ dội, cũng là tên vị thần sông trong truyền thuyết Trung Hoa.

“Hắc long” 黑龍 là giống rồng đen trú ở phía Bắc, được ví với mây hoặc luồng khói đen.

“Thổ long” 土龍 là con rồng đất. Người xưa lấy đất đắp thành hình con rồng để cầu mưa nên gọi là thổ long. “Thổ long”, hay “địa long” 地龍 cũng là tên gọi con giun đất, một vị thuốc Đông y.

“Hoả long” 火龍 là giống rồng toàn thân bao bọc bởi lửa và có thể phun ra lửa. Người Trung Quốc lấy tên “hoả long” đặt cho cây “thanh long”, do quả của cây này có màu đỏ, những cái “tai” mọc ra từ quả giống như con rồng lửa trong truyền thuyết, toàn thân cháy rực, phần cuối cũng có những cái vây xoè ra như đuôi rồng, nên gọi là “hoả long quả”. Còn người Việt lại gọi cây này với cái tên trái ngược là “thanh long”, do thân cây uốn khúc ngoằn ngoèo, dương vây lên như con rồng xanh vậy.

Ngoài ra còn có “cầu long” 虯龍 là giống rồng có sừng, “phi long” 飛龍 là tên một giống chim trong truyền thuyết, đầu phượng đuôi rồng. Con tuấn mã cũng gọi là “phi long”, chiến thuyền là “thuỷ long” 水龍,v.v…

Có vô vàn giống rồng, không sao kể hết …

VUA – RỒNG 

Rồng tượng trưng cho quyền uy, sự cao quý, nên những gì thuộc về vua, từ khi lên ngôi cho đến lúc chết, thường bắt đầu bằng chữ long-rồng 龍. 

“Long thể” 龍體 (mình rồng) chỉ thân thể vua (đồng nghĩa thánh thể, ngọc thể). “Long bào” 龍袍 là áo vua có thêu hình rồng. “Long sàng” 龍床 là giường nằm của vua (đồng nghĩa ngự sàng). “Long xa” 龍車, “long liễn” 龍輦, “long ngự” 龍御, hay “long giá” 龍駕, là xe vua đi (đồng nghĩa thánh giá, xa giá). “Long phi” 龍飛 chỉ vua lên ngôi. “Long hành hổ bộ” 龍行虎步 chỉ phong thái, tướng mạo phi phàm của bậc đế vương. “Long ngự” 龍馭, “Long ngự tân thiên 龍馭賓天, hay “Long ngự thượng tân” 龍馭上賓 chỉ vua thăng hà. 

CÁ HOÁ RỒNG

Rồng là biểu tượng của vương quyền, uy danh, sức mạnh, sự cao quý, nên “hoá rồng” luôn là nỗi khao khát của muôn loài. Tương truyền, ở thượng lưu sông Hoàng Hà, Trung Quốc, có một mỏm đá như hình cái cửa. Khi vua Vũ trị thuỷ đã đục phá mỏm đá này cho rộng thêm ra, nên gọi là Vũ Môn, hay Long Môn. Vũ Môn có vách đá sừng sững, sông Hoàng Hà đổ đến đây thì tuôn trào như thác. Hàng năm vào tiết tháng ba, cá chép tập trung đến nơi này thi vượt Vũ Môn, con nào vượt qua được thì hoá rồng.

Cá chép muốn hóa rồng thì phải vượt Vũ Môn. Con người muốn có được thành công thì cũng phải vượt qua được những gian khổ, thử thách. Về sau, Vũ Môn, hay Long Môn, thường được chỉ chốn trường thi, ví người học trò đi thi được đỗ đạt vinh hiển; cũng dùng để ví người thành đạt hoặc thoả chí, toại nguyện. 

Truyền thuyết cá chép hoá rồng không chỉ có ở Trung Quốc. Sách “Đại Nam nhất thống chí” (phần về tỉnh Hưng Hoá – Phú Thọ ngày nay) chép: “Núi ở huyện Mông, phủ Gia Hưng, trông ra sông Cái. Tương truyền trên núi có cây ngải tiên, cứ đến mùa xuân nở hoa, gặp mưa, hoa trôi xuống sông, bầy cá nuốt hoa ấy, bèn vượt qua Long Môn mà hóa thành rồng”. 

Ở châu Đà Bắc, đoạn sông Đà chảy qua núi Long Môn, phủ Gia Hưng có cửa đá chắn ngang sông, chia thành ba dòng nước xiết, tiếng vọng đến trăm dặm. Sách “Đường thư tứ khảo” chép: Cá anh vũ thường vượt sông Gia Hưng hoá rồng bay đi.

Ở dẫy núi Giăng Màn, thuộc huyện Hương Khê (Hà Tĩnh) cũng có suối Vũ Môn. Mỗi năm cứ đến ngày mồng tám tháng tư thì mây mù dày đặc. Tương truyền đấy là chỗ cá hoá rồng, nên đến ngày ấy, các thuyền đánh cá kiêng không đặt chài lưới ở mạn hạ lưu. 

RỒNG HOÁ CÁ

Không chỉ có chuyện “Cá hoá rồng”, mà còn có “Rồng hoá cá”.

Vào thời Xuân Thu, vua Ngô chán cuộc sống trong cung nên muốn mặc quần áo thường dân để có thể đi chơi, uống rượu cùng dân thường. Quan đại phu Ngũ Tử Tư lo ngại, và cho rằng việc vua của một nước giấu thân phận để xuống với dân chúng là rất mạo hiểm. Ông kể cho vua nghe câu chuyện “Bạch long ngư phục” (rồng trắng hoá cá) như sau:

Ngày xưa, Ngọc Hoàng có một con rồng trắng rất đẹp, tên là Bạch Long. Một ngày nọ, Bạch Long cảm thấy chán chường cuộc sống đơn điệu trên thượng giới, nó liền xuống trần gian, biến thành con cá rồi chọn một vực sâu giá lạnh, nước xanh trong vắt để bơi lội và cảm thấy vô cùng thú vị. Bỗng có một ngư phủ tên là Dự Thả bơi thuyền tới. Chỗ vực sâu này chính là nơi anh ta đánh cá hàng ngày. 

Nhìn thấy con cá to lớn, vảy đẹp tựa rồng, Dự Thả vô cùng mừng rỡ, lập tức bắn ngay một mũi tên. Con rồng trắng đang thích thú vẫy vùng thì bỗng cảm thấy đau nhói. Hóa ra mũi tên của người đánh cá đã xuyên vào mắt nó. Bạch Long đau đớn bỏ chạy. Nó tức giận đến gặp Ngọc Hoàng để khiếu nại, đòi phải trừng phạt Dự Thả. 

Ngọc Hoàng liền hỏi Bạch Long: – Ngươi xuất hiện trước mặt anh ta với bộ dạng ra sao?

Bạch Long đáp: – Con biến thành cá và bơi đùa dưới vực sâu, đang vui thích thì….

Ngọc Hoàng ngắt lời: – Ngư ông kia lấy mũi tên bắn cá thì có tội gì? Đó là nghề của họ. Ngươi đã tự hạ thấp mình, từ rồng biến thành cá. Ngươi không thể đổ lỗi cho người khác. Vấn đề nằm ở chính ngươi! 

Kể xong, Ngũ Tử Tư nói với vua Ngô: – Rồng trắng là thú cưng của Ngọc Hoàng, còn Dự Thả chỉ là một gã thường dân làm nghề đánh cá. Nếu rồng không biến thành cá, Dự Thả đâu dám bắn rồng? Nay hoàng thượng là vua của một nước mà lại từ bỏ địa vị của mình để ngồi uống rượu với chúng dân trong bộ quần áo quê mùa, chẳng phải là sẵn sàng tự chuốc lấy thảm họa như rồng trắng khoác lốt cá kia sao?.

Vua Ngô bèn từ bỏ ý định. Về sau, thành ngữ Bạch long ngư phục, chỉ nỗi lo sợ bất trắc khi quý nhân xuất hành trong bộ dạng của kẻ tầm thường, hoặc ám chỉ người nào tự hạ thấp địa vị của mình.

Thế là, muôn loài ao ước hoá rồng, khi thành rồng lại muốn trở về Hạ giới; loài người mơ ước lên tiên, khi lên tiên rồi lại nhớ cõi phàm trần!

Đại để, chuyện rồng không chỉ có vậy./.

Trúc hoá long (Điêu khắc dân gian, sưu tầm và trưng bày tại Tuấn Công Thư phòng)

Hoàng Tuấn Công, Tết Giáp Thìn – 2024