Ngu Yên: Chủ Nghĩa Văn Học Thế Kỷ 21
Chủ nghĩa nghệ thuật hay văn học thông thường đề cập đến một phong trào hoặc một lý thuyết tư tưởng trong một thời gian thực tế, liên quan đến nghệ thuật, văn học và kịch nghệ.
Có một thời, những chủ nghĩa với lý thuyết mọc lên như nấm để thỏa mãn những đòi hỏi đổi mới từ đầu thế kỷ 20. Vào cuối thế kỷ này, người ta tự hỏi, có cần phải có chủ nghĩa hay không? Một cá nhân có thể tạo ra chủ nghĩa mà không cần nhiều người gia nhập?
Chủ nghĩa của nghệ thuật và văn học thường xuyên liên quan mật thiết. Lý thuyết bên này ảnh hưởng hoặc khai phá cho lý thuyết bên kia và ngược lại. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng gắn bó, có những chủ nghĩa hay phong trào của nghệ thuật không bước qua lãnh vực văn học, ví dụ như chủ nghĩa Cubism phát xuất từ George Braques qua đến Picasso trong hội họa, 1909-1912, Cubism không hiện diện trong sáng tác thơ văn. Hai lãnh vực này có thể có chung một lý thuyết, một khái niệm, nhưng khi thực hành thường phát triển những phong cách, đường hướng khác biệt, với khả năng dẫn đến những chủ nghĩa hoặc phong trao khác hoặc rẽ nhánh.
Những chủ nghĩa chính tạo được phong trào lớn trong lịch sử để lại cho nhân loại các hình dạng khác nhau của thẩm mỹ có thể trình bày theo biến dạng của thủ thuật, của nghệ thuật tùy mức độ cảm xúc qua sự sâu sắc của suy tưởng và khả năng nhận thức. Ngoài ra, có vẻ xa vời hơn, nhưng ích lợi hơn, là tạo ra cho tinh thần người sáng tác, cũng như thưởng ngoạn một khả năng (càng ngày càng cao) thu hút, chia xẻ, hưởng thụ cái đẹp và hay xung quanh đời sống hàng ngày.
Những chủ nghĩa và phong trào văn học chính thức:
1. Chủ nghĩa lãng mạn (bao gồm Gothic).
Thời đại Lãng mạn là một phong trào cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19 tìm cách thoát khỏi Thời đại Lý trí trước đó. Các nhà văn lãng mạn tìm cách tôn vinh cá nhân, trí tưởng tượng, và giống như trong văn học Gothic, sự rùng rợn. Thủ thuật của phong trào này để lại sự chải chuốt văn phong, câu cán mượt mà và ý tưởng trữ tình. Một số tác giả: John Keats, Mary Shelley, Samuel Taylor Coleridge, Edgar Allan Poe.
2. Chủ nghĩa hiện thực & Chủ nghĩa tự nhiên.
Không giống như các nhà văn của thời đại Lãng mạn, tập trung vào cá nhân, trong khi các nhà văn ở thời đại này tập trung nhiều hơn vào những chuyện đời thường, thế tục. Thông thường, các nhà văn tìm cách miêu tả cuộc sống như nó thực sự như vậy, không có gì huyền ảo, chỉ đơn giản là đúng với thời gian và địa điểm. Bản thân ngôn ngữ không hoang dã, giàu trí tưởng tượng hay huyền ảo; đó là ngôn ngữ đơn giản, hàng ngày mà tất cả chúng ta đều có thể hiểu được. Điều này đôi khi cũng khá đen tối, bộc lộ những thực tế khắc nghiệt của cuộc sống bằng những giọng điệu thực tế. Hiện thực trong ý nghĩa này là mô tả càng giống sự thật, càng giống thực tế, càng tốt. Các tác giả: Willa Cather, Jack London, Henry James và Edith Wharton.
3. Chủ nghĩa siêu nghiệm.
Có lẽ những “người ôm cây” ban đầu – những nhà văn theo chủ nghĩa siêu việt muốn thoát khỏi những quy ước, quy tắc của xã hội và thay vào đó tìm kiếm cuộc sống mới trong thiên nhiên. Mối liên hệ tinh thần giữa con người và thiên nhiên là động lực thúc đẩy phong trào này. Một cá nhân có thể khám phá sự thật thông qua sự phản ánh tâm linh, vượt qua lý trí và kinh nghiệm giác quan. Chủ nghĩa này mang đến cho văn chương một số điều kỳ lạ, mở đầu cho nhưng môn phái khai thác tưởng tượng và hư cầu về sau. Tác giả: Henry David Thoreau, Ralph Waldo Emerson và Louisa May Alcott.
4. Chủ nghĩa khu vực hay “Sắc màu địa phương”
Chủ nghĩa khu vực là lối viết đúng với một vùng cụ thể của đất nước; ở Mỹ, điều này có nghĩa là những nhà văn như William Faulkner, Flannery O’Connor và Wendell Berry. Viết sẽ phản ánh khu vực, phương ngữ, văn hóa và cảnh quan của nó. Thường được tường thuật bởi người kể chuyện tiết lộ cuộc sống “đồng quê” của mình cho người đọc “thành thị” hơn. Văn cảnh được đưa đến những vùng biệt lập và xa xôi hơn, nơi các yếu tố cảnh quan – thời tiết, khoảng cách, sự cô lập – đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của người dân.
5. Chủ nghĩa hiện đại.
Thế chiến thứ nhất, lần đầu tiên cả nhân loại bị tổn thương, mất mát, hủy diệt hàng loạt, tạo ra một tâm trạng hoảng hốt, nghi ngờ, bám víu. Đặt lại những câu hỏi lớn về sự sống, cái chết, Thương Đế, vân vân. Nhiều nhà văn tập trung vào những ảnh hưởng về tinh thần và tâm lý của cuộc chiến đó đối với mỗi cá nhân. Trong thời đại này, công nghệ đã có những bước tiến đáng kể, theo chiều hướng tốt hơn cũng như xấu đi; máy bay và xe hơi, mở rộng khả năng di chuyển đến những địa điểm mới, cũng có tác động đến chiến tranh hiện đại. Tác giả: Hilda “H.D.” Doolittle, Gertrude Stein, F. Scott Fitzgerald và Ernest Hemingway.
6. Chủ nghĩa hậu hiện đại.
Ra đời từ thời kỳ hậu Thế chiến thứ hai, chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học được xác định bởi sự cô lập, rời rạc, thường có một người kể chuyện không đáng tin cậy trong những hoàn cảnh phi thực tế hoặc không thể xảy ra. Các nhà văn thường viết về sự vỡ mộng và dựa vào các phương tiện văn học như mỉa mai, nghịch lý và liên văn bản. Chủ nghĩa này có một vị trí rõ rệt trong lịch sử văn học toàn cầu và châu Âu. Tạo nên tinh thần bi quan, nghi hoặc cho đến cận biên nhưng lại không có giải pháp. Văn chương trong giai đoạn này dễ đưa người đọc đến chán nản, mất hy vọng.Tác giả: Thomas Pynchon, Kurt Vonnegut, Vladimir Nabokov và Jean Rhys….
7. Chủ nghĩa hiện sinh.
Nói một cách đơn giản nhất: đối với một người theo chủ nghĩa hiện sinh, thế giới là một nơi thờ ơ, không có quy tắc định sẵn nào xác định hành vi của một người. Cuộc sống đôi khi thật phi lý, những khó khăn không thể giải thích được, những điều tồi tệ dường như xảy ra mà không có lý do. Chủ nghĩa này tạo ra nhiều tác giả uy tín và tác phẩm cao kỳ. Những tác giả được xếp vào chủ nghĩa này, cũng hiện diện trong chủ nghĩa hậu hiện đại.
Tác giả: Franz Kafka, Albert Camus và Samuel Beckett. …..
8. Metamodernism về văn học.
Chủ nghĩa Metamodernism thường được dịch là chủ nghĩa siêu hiện đại, nhưng không chỉnh vì đã có chủ nghĩa Supermodernism, chính xác với cụm từ Siêu hiện đại hơn. Tôi dịch theo nội dung và hiệu quả của nó là chủ nghĩa Kết Hợp Hiện Đại. Cách giải thích của Wikipedia cũng phù hợp với ý nghĩa kết hợp: “Về mặt bản thể học, chủ nghĩa metamodernism dao động giữa hiện đại và hậu hiện đại. Nó dao động giữa sự nhiệt tình hiện đại và sự mỉa mai hậu hiện đại, giữa hy vọng và u sầu, giữa ngây thơ và hiểu biết, đồng cảm và thờ ơ, thống nhất và đa nguyên, tổng thể và phân mảnh, sự thuần khiết và mơ hồ.’
Chủ nghĩa này rộng lớn, bao trùm nhiều lãnh vực văn hoá, triết học, văn học, nghệ thuật, khoa học, xã hội, vân vân, kể cả chính trị học. Ở đây, chúng ta chỉ xem xét về mặt văn thơ.
Metamodernism trong văn học 21.
Cho đến một phần tư của thế kỷ này, vẫn chưa có chủ nghĩa nào thực sự được công nhận. Trong tất cả các chủ nghĩa đang hiện diện, chủ nghĩa metamodernism được nhắc đến và tranh luận nhiều nhất. Đó là lý do chúng ta lưu tâm.
Ngoài ra, chủ nghĩa này mang tính độc đáo với nỗ lực hòa hợp hoặc kết hợp những phi lý và mâu thuẫn vào với nhau. Có lẽ, cần thiết cho tình hình và tình trạng chia rẽ của nhân loại hiện nay “Chủ nghĩa metamodernism được phản ánh trong tiểu thuyết và văn học thông qua các kỹ thuật kể chuyện khác nhau và miêu tả hiện thực. Những kỹ thuật này bao gồm do dự, suy nghĩ “như thể”, nghịch lý, phá vỡ ranh giới trong chủ nghĩa toàn cầu và siêu tự sự (đại tự sư, đại văn bản). Việc sử dụng những kỹ thuật này giúp người đọc hiểu sâu hơn về thực tiễn siêu hiện đại trong tiểu thuyết hiện đại.
Các văn bản theo chủ nghĩa metamodernism thường dao động giữa cách miêu tả văn cảnh, cốt truyện, nhân vật… theo chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại, kết hợp các yếu tố từ cả hai và hình thành một thế giới quan siêu hiện đại. Họ cũng nhấn mạnh đến tính dễ bị tổn thương và sự mong manh của các cá nhân, nêu ra tính chất vật lý của con người tồn tại. Chủ nghĩa metamodernism với tư cách là một dự án văn hóa nhằm mục đích “trở lại” bản thể học và vượt qua bản chất mang tính biểu tượng của hiện thực, đưa ra một ý tưởng khác về hiện thực. Chủ nghĩa hậu hiện đại, là sự phát triển của chủ nghĩa metamodernism, cố gắng tái cấu trúc những gì đã bị chủ nghĩa hậu hiện đại phá hủy trong khi vẫn giữ lại một số quan điểm của nó. Tiểu thuyết metamodernism thường bộc lộ những dấu hiệu như thành phần tân lãng mạn, sự dao động giữa nhiệt tình theo chủ nghĩa hiện đại và sự hoài nghi của chủ nghĩa hậu hiện đại, định hướng đến các giá trị nhân văn và tính “siêu lai (super-hybridity).” (How metamodernism reflect in fiction and literature?)
Rất khó nhận thức truyện metamodern vì có sự chồng chéo lên nhau giữa các chủ nghĩa: Hiện Đại, Hậu Hiện Đại, và Hiện sinh. Người sáng tác truyện, thơ metamodern phải thực sự thông thấu sự kết hợp và tấm lòng bao dung cho tất cả những phi lý và mâu thuẫn.
[Để hiểu chủ nghĩa Metamodernism, cần hiểu chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại. Chủ nghĩa hiện đại là một phong trào triết học ở Mỹ và châu Âu trong nửa đầu thế kỷ XX. Nó thường gắn liền với Thời đại phát thanh. Tuyên ngôn “Làm cho nó mới!” của nhà thơ Ezra Pound năm 1934 đã nắm bắt được bản chất của chủ nghĩa hiện đại, vốn khuyến khích những người sáng tạo bỏ lại nền văn hóa lỗi thời trong quá khứ và xem xét lại mọi khía cạnh của sự tồn tại. Nó được coi là một triết lý theo chủ nghĩa tối đa, trong đó những người sáng tạo nỗ lực vượt qua cái chết của chính họ bằng cách tạo ra Lịch sử.
Sau Thế chiến thứ hai, chủ nghĩa hậu hiện đại—khoảng từ năm 1945 đến năm 1995—nổi lên nhằm bác bỏ những đại tự sự (siêu văn bản) của chủ nghĩa hiện đại. Gắn liền với Thời đại Truyền hình, nó thường được xác định bằng thái độ hoài nghi, mỉa mai và thuyết tương đối về mặt đạo đức. Bạn có thể thấy thế hệ theo chủ nghĩa hậu hiện đại đã vỡ mộng: họ bác bỏ khả năng có được kiến thức đáng tin cậy, phủ nhận sự tồn tại của một thực tại phổ quát, và coi thẩm mỹ là tùy tiện và chủ quan.
Nhiều người chỉ trích chủ nghĩa hậu hiện đại vì tính tiêu cực của nó, việc nó thúc đẩy chủ nghĩa tối nghĩa—tại sao lại tiến hành bất kỳ nghiên cứu khoa học nào nếu không có gì là thật?—thực tế và đơn giản là không thể tin vào điều gì cả. “Ý tưởng cho rằng chúng ta đang sống trong một nền văn hóa hậu hiện đại là một điều hoang đường.
Sau đó, chủ nghĩa hậu hậu hiện đại (post- postmodernism) không phải là triết lý văn hóa đi theo chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại. Thay vào đó, đó là sự tìm kiếm chung cho những gì sẽ xảy ra tiếp theo; tìm kiếm một thế giới quan cân bằng hơn có tính đến tính lạc quan của chủ nghĩa hiện đại và tính đa nguyên của chủ nghĩa hậu hiện đại.
Chủ nghĩa metamodernism đã trở thành triết lý văn hóa thịnh hành kể từ giữa những năm 2000. Nó gắn liền với Thời đại Internet và nói về bản chất phân cực của con người. Nghi ngờ không thể tồn tại nếu không có hy vọng. Thất bại không thể tồn tại nếu không có kinh nghiệm. Cuộc sống có thể mang lại cảm xúc và sự thờ ơ, sự chân thành và mỉa mai, phấn khích và u sầu. Theo các nhà lý luận văn hóa Timotheus Vermeulen và Robin van den Akker, chủ nghĩa metamodernism “có thể được coi là một kiểu ngây thơ hiểu biết, một chủ nghĩa duy tâm thực dụng”. Đối với thế hệ metamodern “những câu chuyện vĩ đại vừa cần thiết vừa có vấn đề, hy vọng không chỉ đơn giản là thứ để nghi ngờ, tình yêu không nhất thiết là thứ để bị chế giễu”, Vermeulen giải thích.]
Trực tiếp ảnh hưởng đến văn chương.
Trong bài viết của Seth Abramson, Ten Basic Principles of Metamodernism, ông nhận định:
1. Đối thoại hơn là biện chứng.
Chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism) ủng hộ “biện chứng” hơn là đối thoại, trong khi chủ nghĩa metamodernism rõ ràng thúc đẩy nguyên nhân của đối thoại. Trong khi tư duy “biện chứng” của những người theo chủ nghĩa hậu hiện đại cho rằng mọi tình huống chỉ liên quan đến hai lực lượng đối lập cơ bản – chúng chiến đấu cho đến khi một bên giành chiến thắng và bên kia bị tiêu diệt – thì tư duy đối thoại bác bỏ ý tưởng cho rằng không có nền tảng trung gian hoặc phương tiện đàm phán giữa các vị trí khác nhau.
Ví dụ, trong khi chủ nghĩa Marx, một thế giới quan hậu hiện đại quan trọng, giả định một cuộc chiến kinh tế xã hội vĩnh cửu giữa các giai cấp kinh tế “tư sản” và “vô sản”, mà cuối cùng chỉ còn một bên còn nguyên vẹn, thì chủ nghĩa metamodernism cho rằng các cuộc đấu tranh biện chứng có xu hướng tiêu diệt tất cả các bên tham gia và không tạo ra bất kỳ sự thay đổi lâu dài nào. Đối thoại metamodernism không giải quyết được những khác biệt giữa các đảng phải và quan điểm, chỉ đơn giản nhấn mạnh những lĩnh vực chồng chéo giữa các ý kiến tranh cãi có thể dẫn đến hành động tập thể hiệu quả đối với một loạt vấn đề.
2. Nghịch lý.
Chủ nghĩa metamodernism bao hàm sự nghịch lý. Ví dụ, khi đàm phán giữa niềm tin của chủ nghĩa hiện đại vào tính phổ quát và niềm tin của chủ nghĩa hậu hiện đại vào tính ngẫu nhiên, chủ nghĩa metamodernism thừa nhận, một số ý tưởng nhất định có thể đúng một cách “khách quan” đối với một cá nhân mặc dù cá nhân đó cũng hiểu, chúng không đúng một cách phổ biến.
Nghịch lý về một điều gì đó “đúng một cách khách quan đối với tôi” đơn giản có nghĩa là trên thực tế, mỗi người trong chúng ta đều phản ứng với những “siêu tự sự (metanarrative)” hướng dẫn (những câu chuyện chúng ta tự kể về cuộc sống của mình và ý nghĩa của chúng) mà thậm chí còn có tác dụng hoàn toàn đúng với chúng ta. vì chúng ta nhận ra chúng không được chia xẻ — hoặc thậm chí không nhất thiết phải được hiểu — bởi những người khác. Mối quan hệ nghịch lý này giữa cách chúng ta nhận thức về sự thật “cục bộ” và cách chúng ta nhận thức về nó ở cấp độ xã hội cho phép chúng ta liên tục thể hiện và tham gia vào những nghịch lý, vì chúng ta đồng thời nhận thức và chấp nhận cách chúng ta vận hành cá nhân và điều đó khác biệt đáng kể như thế nào từ cách làm của người khác.
3. Chồng chéo lên nhau.
Sự đặt cạnh nhau xảy ra khi một vật được đặt chồng lên một vật khác mà thông thường nó được coi là hoàn toàn tách biệt. Một ví dụ điển hình về sự đặt cạnh nhau của metamodernism lại là sự đặt cạnh nhau của sự chân thành và sự mỉa mai mà chúng ta thường thấy trong văn học metamodernism. Sự đặt cạnh nhau đặc biệt này — cũng là một nghịch lý, vì làm sao bất kỳ người hoặc văn bản nào lại có thể vừa chân thành vừa mỉa mai được? — xảy ra khi mối quan hệ chân thành của một cá nhân với cảm xúc của chính họ đối mặt với nhận thức đồng thời rằng những cảm xúc này là vô lý đối với những người khác. Hoặc, nói cách khác, sự gắn kết này có thể nảy sinh khi một cá nhân cảm thấy có sự tách rời đầy mỉa mai khỏi nền văn hóa của họ, nhưng sự tách rời này lại làm nảy sinh một loạt những cảm xúc và quan điểm hoàn toàn tha thiết. Ví dụ, các nhà văn trong nhánh văn học metamodernism của “Chân thành mới” rất nghiêm túc trong việc bày tỏ suy nghĩ và cảm xúc của mình đến mức, với tư cách là độc giả, chúng ta có thể chắc chắn rằng họ nhận thức được chúng nghe có vẻ phi lý như thế nào đối với những người khác. Do đó, chúng ta cảm thấy những bài viết như vậy và những cá nhân như vậy vừa chân thành vừa mỉa mai.
4. Sự sụp đổ của khoảng cách.
Khoảng cách giữa bản thân và người khác, giữa bản thân và xã hội, là khoảng cách mà chủ nghĩa hậu hiện đại tôn vinh bằng cách tìm ra vô số cách để đặt bản thân (hoặc các nhóm bản thân) vào một phép biện chứng với các bản thân hoặc nhóm đối lập. Do đó, chủ nghĩa hậu hiện đại, xuất hiện trong Thời đại phát thanh, có xu hướng nhấn mạnh ý nghĩa bị thoái hóa như thế nào khi nó di chuyển qua không gian rộng lớn giữa bản thân và các nhóm bản thân. Chủ nghĩa siêu hiện đại, xuất hiện trong Thời đại Kỹ thuật số, thừa nhận rằng chúng ta ngay lập tức cảm thấy xa cách với người khác — bởi vì trên Internet hầu hết mọi người đều là người lạ, nên xung quanh chúng ta hàng ngày có nhiều người lạ hơn bất kỳ thời điểm nào khác trong lịch sử loài người — mà còn vô cùng gần gũi với người khác, vì Internet cho phép chúng ta tạo kết nối nhanh hơn bao giờ hết. Sự ẩn danh đồng thời và sự thân mật giả tạo của Internet cũng làm cho việc nhận dạng bản thân trở nên bối rối đến mức khiến việc phân biệt ý kiến của chúng ta về bản thân với ý kiến của người khác về chúng ta ngày càng khó khăn hơn, hoặc phân biệt những gì chúng ta có thể hoặc thực sự tin với những gì người khác tin. Điều này có nghĩa là khó hơn bao giờ hết để giả vờ rằng chúng ta đang có mối quan hệ biện chứng với những người hoặc ý tưởng khác – thay vì ở giữa vòng xoáy của bản sắc và niềm tin mà đôi khi chúng ta chỉ cảm thấy mình kiểm soát được.
5. Tính đa chủ quan.
Chủ nghĩa hậu hiện đại đòi hỏi sự “Balkan hóa” bản sắc bản thân – sự phân chia bản thân và các nhóm bản thân thành các tập đoàn rõ ràng về chủng tộc, tôn giáo, giới tính, dân tộc, quốc tịch, khuynh hướng tình dục, v.v. – để thiết lập phép biện chứng. Rốt cuộc, phải biết chính xác vị trí của mình nếu định nói rằng ai đó có bản sắc khác đối lập. Thay vào đó, chủ nghĩa metamodernism bao trùm khái niệm về tính chủ quan đa dạng: ý tưởng cho rằng không chỉ tất cả chúng ta cùng lúc thấy mình trong vô số phạm trù chủ quan, mà chúng ta thậm chí còn tạm thời chiếm giữ và chia xẻ tính chủ quan với những người khác, những người có vẻ rất khác với chúng ta. Ví dụ: trong không gian đồng thời ẩn danh và thân mật giả tạo của Internet, chúng ta thường thấy mình kết hợp lời nói và hành động với những người mà chúng ta không biết gì về họ — ngoại trừ việc họ đồng ý với nhau về một vấn đề đang thảo luận vào lúc đó. . Bằng cách này, chúng ta có thể cảm thấy như thể chia xẻ tính chủ quan với những người khác, những người mà nếu biết họ trong thời gian thực, sẽ nhận ra họ “khác” với chúng ta về (ví dụ) chủng tộc, tôn giáo, giới tính, sắc tộc của họ, quốc tịch, khuynh hướng tình dục, quan điểm chính trị, v.v.
Trải nghiệm nhiều chủ quan có nghĩa là có quyền từ chối hoặc không nhấn mạnh vĩnh viễn một tính chủ quan mà người ta thường cho là có liên quan, chuyển đổi vị trí chủ quan khi cảm thấy phù hợp về mặt cảm xúc và/hoặc logic, tạm thời loại bỏ một số tính chủ quan nhất định để cộng tác với người khác hoặc tạo ra hoàn toàn những tính chủ quan mới có nhiều ý nghĩa đối với một người hơn là những phạm trù khác biệt được thừa nhận hiện đang thống trị diễn ngôn của công chúng. Điều này cũng có nghĩa là đồng cảm với tính đa dạng của tính chủ quan của người khác ngay cả khi một người không chia xẻ tất cả hoặc thậm chí hầu hết chúng, thay vì coi những khác biệt đó là địa điểm tranh chấp. Nói rõ hơn, điều này không phản ánh mong muốn xóa bỏ hoặc loại bỏ các danh mục chủ quan hiện có, chỉ đơn thuần làm phức tạp các mô hình về cách chúng phát triển, tương tác, giao thoa và kịp thời giúp hình thành bản sắc cá nhân và tập thể.
6. Hợp tác.
Chủ nghĩa metamodernism không chỉ khuyến khích đối thoại mà còn khuyến khích sự hợp tác. Trong một thế giới mà chúng ta thường xuyên bị ảnh hưởng bởi vô số thế lực – một số chúng ta nhận ra là có ảnh hưởng đối với mình, một số thì không – chủ nghĩa này diễn giải trải nghiệm này bằng cách khuyến khích tham gia một cách có ý thức những nỗ lực và quan điểm của mình với quan điểm của người khác. Ví dụ, các mô hình học tập metamodern có xu hướng nhấn mạnh việc học viên làm việc cùng nhau để tạo ra các dự án đồng thời mang tính tự thể hiện của mỗi cá nhân và cũng là sự tự thể hiện đầy đủ của nhóm, cho dù quan điểm và tính chủ quan của nhóm có thể đa dạng đến đâu. Trong lĩnh vực chính trị, chủ nghĩa siêu hiện đại khuyến khích các cá nhân và các nhóm lợi ích tìm ra những lĩnh vực có tính chất chồng chéo để họ có thể cùng nhau làm việc trong các dự án chỉ thực hiện một lần nhằm nâng cao giá trị của tất cả những người tham gia. Ý tưởng ở đây là ngay cả khi bạn không đồng ý với người khác về 99 trên 100 điều, nếu điều thứ một trăm đó có ý nghĩa rất lớn đối với bạn và người khác thì có thể cùng nhau làm việc hiệu quả về chủ đề đó. Vì vậy, trong thế giới meatmodern, chúng ta gặp phải những gì thường có vẻ là những “liên minh” kỳ quái – ví dụ, khi các luật sư ACLU cực tả bảo vệ trước tòa quyền của những kẻ theo chủ nghĩa phát xít mới cực hữu được tuần hành trên tài sản công, như cả hai nhóm. (trong trường hợp này) được đầu tư vào hoạt động của Tu chính án thứ nhất. Điều này không có nghĩa là ACLU “ủng hộ” những người theo chủ nghĩa Quốc xã mới – hoặc ngược lại – nhưng việc đạt được điều gì đó hữu hình và có giá trị đối với cả hai nhóm tạm thời quan trọng hơn đối với mỗi nhóm so với các yếu tố khác trong triết lý chính trị và văn hóa của họ.
7. Tính đồng thời và tính mơ hồ mang tính khái quát.
Những mô tả ban đầu về chủ nghĩa metamodernism cho rằng suy nghĩ của một cá nhân theo chủ nghĩa này “dao động” giữa các trạng thái đối lập về suy nghĩ, cảm giác và tồn tại – gần như thể con người là những con lắc lắc lư giữa các chủ thể rất khác nhau. Thay vào đó, những hiểu biết gần đây hơn về chủ nghĩa siêu hiện đại nhấn mạnh đến tính đồng thời – ý tưởng cho rằng cái tôi “metamodern” không di chuyển giữa các vị trí khác nhau mà trên thực tế tồn tại ở tất cả các vị trí đó cùng một lúc. Yếu tố nghịch lý của các vị trí kề cận metamodern được tạo ra bởi chính tính đồng thời này; xét cho cùng, nếu một người “dao động” giữa các lập trường đối lập một cách có ý thức, thì trên thực tế, người ta chỉ đang thừa nhận sự thống trị của phép biện chứng hậu hiện đại (tức là các hệ nhị phân có “cực” ở hai đầu mà người ta có thể xoay chuyển ở giữa).
Tính đồng thời và sự mơ hồ của chủ nghĩa metamodernism cũng làm nảy sinh mối quan tâm đối với những “tác động” không thể nhận biết được (như trong các nhân vật twee phi lý, vô lý và/hoặc không thể đọc được của một bộ phim tháng 7 của Wes Anderson hoặc Miranda); lý luận năm và sáu chiều (demension) (như trong các lý thuyết khoa học cho rằng nhiều thực tế là có thể và thậm chí có thể cùng tồn tại, ngay cả khi chỉ có thể nhận thức được một thực tế), và tính thăng hoa của Kant mới (niềm tin rằng chúng ta có thể bị choáng ngợp và truyền cảm hứng về mặt sinh sản) bởi những thực tế quá chồng chéo và nghịch lý đến mức chúng ta thậm chí không hiểu được những gì chúng ta đang nhìn thấy hoặc trải nghiệm).
Mặc dù không có mối liên hệ rõ ràng nào với văn hóa ma túy, chủ nghĩa meatmodernism thường tạo ra những nghịch lý và sự đặt cạnh nhau dễ dàng được quan sát và chấp nhận hơn trong trạng thái ý thức đã thay đổi, đó là lý do tại sao rất nhiều chương trình truyền hình và sách thu hút nhóm người sử dụng ma túy — ví dụ, tất cả các chương trình dưới biểu ngữ “Bơi dành cho
người lớn” — có thể được coi là metamodern. Tương tự như vậy, nghệ thuật thị giác và văn học mang tính “siêu” theo nghĩa thông thường (như chương trình truyền hình quá cố Community, hay khái niệm “tiểu thuyết phi hư cấu” trong văn học) thường được cho là metamodern khi chúng cản trở khả năng trong việc xác định cái gì là thực hay không thực, chân thành hay không chân thành.
8. Một phản ứng lạc quan trước bi kịch bằng cách quay trở lại với các câu chuyện kể, mặc dù một cách thận trọng.
Kể từ khi thuật ngữ “metamodernism” được đặt ra vào năm 1975, các nhà lý thuyết này đều đồng ý rằng các cá nhân và xã hội sử dụng chủ nghĩa metamodernism như một phản ứng mang tính sinh sản đối với bi kịch; quả thực, cụm từ “một phản ứng lãng mạn trước khủng hoảng” thường được dùng để mô tả chủ nghĩa metamodernism.
Những người theo chủ nghĩa này nhận thức được các hình thức hỗn loạn chính trị, kinh tế, khí hậu và các hình thức hỗn loạn khác như bất kỳ ai khác, nhưng họ chọn cách lạc quan và chủ động tham gia vào cộng đồng ngay cả khi và ở nơi họ tin rằng nguyên nhân đã bị thất lạc. Các nhà lý thuyết mô tả cách suy nghĩ này như một phương thức triết học “như thể”; nghĩa là, người theo chủ nghĩa này chọn sống “như thể” sự thay đổi tích cực là có thể xảy ra ngay cả khi chúng ta hàng ngày được nhắc nhở rằng văn hóa nhân loại trên thực tế đang ở trong tình trạng hỗn loạn và thậm chí có thể suy tàn. Người theo chủ nghĩa này không cho rằng sự tham gia lạc quan của công dân sẽ cứu thế giới – hay giải quyết một cuộc khủng hoảng cá nhân – chỉ đơn thuần rằng a) nó không gây tổn hại gì, b) cho một người lý do để hy vọng và khả năng ngăn chặn sự tuyệt vọng, và c) trong một số trường hợp hiếm hoi, cảm giác rằng tác hại là không thể tránh khỏi và/hoặc không thể tránh khỏi là không chính xác. Loại hành vi lạc quan này thường đòi hỏi phải chấp nhận các “siêu tự sự” – ví dụ, ý tưởng rằng văn hóa con người có thể “cải thiện” mức độ công lý và công bằng mà nó thể hiện theo thời gian – ngay cả khi một người nghi ngờ các siêu tự sự như thế này không phải như vậy, cuối cùng, có thể hỗ trợ. Nếu chủ nghĩa hậu hiện đại phủ nhận khả năng của các siêu tự sự cá nhân, địa phương, khu vực, quốc gia hoặc quốc tế khác với những siêu tự sự đã/có tính chất biện chứng chặt chẽ, thì chủ nghĩa metamodernism cho phép chúng ta quay trở lại với những siêu tự sự có chọn lọc và với đôi mắt mở rộng, với những siêu tự sự đó khi chúng giúp cứu bản thân ra khỏi sự chán nản, anomie, tuyệt vọng, hoặc lười biếng về đạo đức và đạo lý.
9. Liên ngành.
Chủ nghĩa metamodernism hướng đến việc ứng phó với khủng hoảng bởi vì xu hướng tháo dỡ và sắp xếp lại các cấu trúc là một thừa nhận ngầm những cấu trúc đó – như đã được sắp xếp trước đây – chính là nguyên nhân có thể đã gây ra khủng hoảng ngay từ đầu. Do đó, người theo chủ nghĩa này có thể ủng hộ việc tháo dỡ, sắp xếp lại và sắp xếp lại (hoặc thậm chí loại trừ hoàn toàn) các thuật ngữ đã được thừa nhận như “thể loại”, “đảng phái”, “bộ phận”, “kỷ luật”, “thể chế” và các ranh giới tương tự khác của sự khác biệt và sự tách biệt. Nói rõ hơn, đây không phải là sự phản đối vô chính phủ đối với cấu trúc, mà là sự quan tâm sâu sắc và có tinh thần công dân trong việc đánh giá lại một cách triệt để các cấu trúc với mục tiêu hướng tới sự thay đổi tiến bộ.
Ghi:
[Seth Abramson là Trợ lý Giáo sư tiếng Anh tại Đại học New Hampshire và là Đồng biên tập loạt bài Viết thử nghiệm hay nhất của Mỹ, ấn bản tiếp theo sẽ được Nhà xuất bản Đại học Wesleyan xuất bản vào cuối năm 2015. Cuốn sách gần đây nhất của ông là Metamericana.]
Chủ nghĩa văn học trong thời đại công nghệ.
Thời đại công nghệ, nơi mực in được thay thế bằng phần mềm, đã đưa văn học đến ngã ba đường.
Kỷ nguyên của sự toàn trí kỹ thuật số – những nguyên tắc của hệ tư tưởng thời đại – đã thay đổi văn học. Thành phần công nghệ, tính thực tiễn của nó, đã biến đổi sâu sắc cách chúng ta sáng tạo, giao tiếp và đọc văn học. Đó là sự tiếp quản của phương tiện điện tử, nơi người đọc trở thành người lướt sóng mà một cuốn tiểu thuyết hoặc một bài thơ, hơn bất cứ thứ gì, được tải xuống. Nhưng ngay cả thông qua những cú chuột click và các bản pdf, văn học vẫn là ngọn hải đăng cho sự chuyển đổi này; nó đưa ra cái nhìn phê phán về những thay đổi mô hình này đưa ra một góc nhìn sẽ truyền tải ý nghĩa cho tương lai.
Sự chuyển giao (chủ nghĩa) của ngôn ngữ.
Thế kỷ 21 đang tự xác định mình là một kỷ nguyên nghịch lý. Với toàn cầu hóa và kết nối với nhau, chúng ta có cả thế giới dưới chân mình, một thế giới không có ranh giới. Tuy nhiên, trong khi sự tương tác này – thông qua tin nhắn tức thời, email và điện thoại thông minh – bề ngoài đã đưa chúng ta đến với nhau thì nó cũng đã chia rẽ chúng ta. Phép nghịch hợp (oxymoron) này không chỉ liên quan đến cuộc đối thoại với “Người khác”, mà còn liên quan đến cách miêu tả một sự vướng mắc như vậy. Chúng ta rõ ràng là xa cách. Loại ngôn ngữ được áp dụng cùng với công nghệ mới này đang nuôi dưỡng một loại mù chữ ngăn cản mọi khả năng hiểu được một tác phẩm cổ điển. Thomas Mann? Bạn cần phải là một nhà khoa học tên lửa để đọc được điều đó. Phương Tây có thể có trình độ đọc viết và giáo dục cao hơn trước đây, nhưng ngày càng có sự thờ ơ và thiếu kiên nhẫn đối với cách chúng ta tiếp thu ngôn ngữ. Bây giờ chúng ta có những động từ mới: chúng ta tweet, chúng ta Skype – chúng ta thốt lên chế độ độc tài của hinc et Nunc. Do đó, những thách thức liên quan đến giáo dục là rất lớn, cụ thể là cuộc tranh luận chưa được giải quyết về việc những chủ nghĩa mới này của ”kỷ nguyên www.com” đã và đang thay đổi nền nhân văn như thế nào.
Giả định rằng lịch sử và sự thay đổi xã hội là tiến bộ. Công nghệ hiện đại đã phát triển với tốc độ đáng kinh ngạc và thật hấp dẫn khi thấy nó hoạt động hướng tới một mục đích ưu việt nào đó. Chúng ta có cảm thấy điều này với văn học không?
Trước đây, với việc chỉ một số ít người có đặc quyền, có trình độ học vấn đồng nhất mới có thể truy cập trang này, nên có một hệ thống phân cấp đặc biệt và sự đồng thuận của giới trí thức về nội dung mọi người nên đọc. Có giá trị được đặt trong tính thần bí của các tác phẩm lịch sử và cuộc đấu tranh để hiểu chúng. Chúng ta bám vào truyền thống. Trong cuộc sống đời thường cũng vậy, con người phải đương đầu với những ngôn ngữ khó. Tôn giáo chảy xuyên suốt xã hội và giữ độc quyền về diễn ngôn trong nhiều thế kỷ. Chỉ đến những năm 1960, Vatican mới ra phán quyết rằng thánh lễ có thể được cử hành bằng tiếng bản địa thay vì tiếng Latinh. Mặc dù cách thực hành truyền thống này hầu như không mang tính bình đẳng, nhưng việc bước ra ngoài chế độ lái tự động của ngôn ngữ hàng ngày sẽ mở ra cánh cửa suy ngẫm. Nó cho phép khám phá ra rằng chúng ta thực sự đang đánh mất điều gì đó trong ngôn ngữ sống của mình. Jeanette Winterson nhớ lại, lớn lên ở một thị trấn khai thác mỏ phía bắc nước Anh vào những năm 1960, mọi người đều quen thuộc với Kinh thánh của Vua James VI. Nhiều người đàn ông lao động đã học Shakespeare trong các bài giảng buổi tối và không ai trong số họ cảm thấy khó khăn vì đó là một kiểu diễn thuyết mà họ đã được dạy dỗ. Sự tiếp xúc như vậy giúp chúng ta thoát khỏi những tình huống mà ngôn ngữ dễ hiểu không nhất thiết phải truyền tải ý nghĩa một cách có giá trị. Bằng ngôn ngữ được cho là “dân chủ hóa”, chúng ta mất kết nối với quá khứ “sống” của mình và tính thẩm mỹ của ngôn ngữ đó. Nó không chỉ là sự tiết lộ ý nghĩa, một tấm gương phản chiếu thực tế, mà còn là một thứ để chơi và tận hưởng.
Ở một khía cạnh nào đó, đây chính là điều mà các tác giả đã tìm thấy ở thế kỷ 20-21. Khái niệm văn học bị tách ra và bị đẩy tới giới hạn của nó. Sau nỗi kinh hoàng của hai cuộc chiến tranh thế giới, nghệ thuật bị tổn thương. “Làm thơ sau Auschwitz là dã man” Adorno tuyên bố câu nổi tiếng này. Nếu những siêu tự sự của xã hội – chẳng hạn như niềm tin vào một vị Chúa nhân từ, lý trí hay tinh thần con người – đã dẫn chúng ta đến những hành động tàn bạo như vậy, thì chúng quá sai lầm và mỏng manh để có thể tán thành trong văn học. Đã qua rồi những nhân vật chính quen thuộc và đồng cảm; cốt truyện tuyến tính và sự thoải mái của một người kể chuyện tách biệt và toàn tri. Chính Samuel Beckett là người đã tiến xa hơn bất kỳ ai khác. Anh ấy bắt đầu phân tích câu chuyện, nhân vật, cấu trúc câu và thậm chí cả ngữ pháp. Lý tưởng nhất, ngôn ngữ nên không được tin cậy, vì lời nói có thể lừa dối. Nhưng trớ trêu thay, thứ Beckett chọn làm cọ vẽ lại chính là thứ mà anh đang cố gắng phủ nhận. Vì nếu ngôn ngữ là một “tấm màn phải được xé toạc để có thể tiếp cận được những thứ (hoặc cái Không) đằng sau nó”, thì một vòng tròn không thể tránh khỏi sẽ được vẽ ra. Đỉnh cao của quá trình này là “The Unnamable” (Không thể đặt tên) (1953) – một tựa đề tự mâu thuẫn nếu có – nơi chúng ta phải đối mặt với một giọng nói không có hình dáng, không có tính cách phun ra những điều vô nghĩa không mạch lạc.
Không thể tránh khỏi, “tấm màn” lại được dựng lên và che giấu “sự hư vô” này. Ở phương Tây vào đầu thế kỷ mới, chúng ta đã thực hiện một sự tự lừa dối mới. Hầu hết chúng ta đều chưa từng trải qua những ảo tưởng tan vỡ như các thế hệ trước. Nhưng mặc dù chúng ta đã quay trở lại với hình thức truyền thống thoải mái, các chủ đề đã thay đổi, và văn học đang vật lộn với chúng.
Tiến đến vô cực và xa hơn: Mọi thứ đang trở thành khoa học viễn tưởng (chủ nghĩa)
Một thực tế áp đảo xác định chúng ta với tư cách cá nhân, vì chúng ta sống trong một thế giới hoàn toàn không do chúng ta tạo ra. Về mặt công nghệ, chân trời trần tục này giờ đây là một mạng lưới phát triển nhanh chóng, nơi chúng ta đánh mất chỗ đứng trong những gì quen thuộc.
Sự phổ biến khắp nơi của khoa học viễn tưởng, từng là một thể loại sùng bái bị gạt ra ngoài lề xã hội, là triệu chứng của sự thay đổi này. Các tác giả có thể khắc họa những giới hạn của con người trong một khung cảnh thịnh vượng, vô biên. Đây là lý do tại sao khoa học viễn tưởng không phải là một thể loại chặt chẽ mà là một sợi dây xuyên suốt nhiều tác phẩm. Đó là một lăng kính mà qua đó chúng ta có thể nhìn thoáng qua “sự tiến bộ” trong thế giới và những tác động của nó đối với thân phận con người. Kazuo Ishiguro, không phải là một nhà văn khoa học viễn tưởng, sử dụng các bản sao được nhân giống để thu hoạch nội tạng làm nhân vật chính của mình trong “Never Let Me Go” chẳng hạn. Với chứng loạn thị đáng lo ngại ngày nay, anh ấy loại bỏ những cạm bẫy thường ngày làm xáo trộn nhận thức để chứng minh, trong một hoàn cảnh tuyệt vọng không thể thay đổi, tình yêu và tình bạn vẫn còn.
Trọng tâm của nghệ thuật là quan điểm phê phán bất kể thời đại nào. Do đó, các chủ đề được phát triển trong chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại vẫn đang được rèn giũa. Ở một mức độ nhất định, chúng ta không xa Baudelaire, Woolf, Borges hay Brecht. Sự lật đổ các hệ thống tiên đề, sự nhạo báng nó thông qua một diễn ngôn hiện sinh, hay sự phân mảnh của lĩnh vực chủ đề, tất cả vẫn còn hiện diện rất nhiều. Sự mới lạ vẫn là dấu hiệu của cái chết – tiếng hát của sự phù du và không thể diễn tả được, cuối cùng là sự chiến thắng của sự lãng quên. Có thể không có cuộc cách mạng công nghiệp nào làm dấy lên những nghi ngờ và sự chắc chắn về sự tiến bộ, nhưng có ngày tận thế kinh tế, âm mưu của trật tự thế giới mới, “thiên đường trên trái đất” thời đại mới và những hạt đậu thần. Tóm lại, sự vắng mặt kỳ lạ, có thể chịu đựng được. Có lẽ Robert Musil là một nhà tiên tri. Tuy nhiên, giới trí thức vẫn đang nhai cùng một hòn đá.
Văn Học Một Mình.
Ở mức độ cơ bản hơn, văn học là sự giải trí, và quan trọng nhất là sự giải trí chung, sự chia xẻ trong hư cấu và hiện thực. “Robinson Crusoe” (1709) thường được coi là cuốn tiểu thuyết đầu tiên – ít nhất là như chúng ta biết ngày nay. Đây là điều đáng kinh ngạc gần đây. Văn học được trải nghiệm trong phần lớn lịch sử loài người rất khác nhau. Ở những xã hội mà hầu hết người mù chữ, truyện, kịch và thơ đều được trình diễn. Nhịp điệu và âm mưu truyền miệng là điều tối quan trọng; những từ cần thiết để không chỉ truyền đạt ý nghĩa mong muốn mà còn cả âm thanh mong muốn. Nếu chúng ta nghĩ về những tác phẩm vĩ đại trong quá khứ, chẳng hạn như “Iliad” của Homer, “Aenid” của Virgil, “Canterbury Tales” của Chaucer hay “Paradise Lost” của Milton, thì đó là những bài thơ sử thi và trò giải trí chung. Cũng là trường hợp của Đoạn Trường Tân Thanh, Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm.
Điều trớ trêu là khi ngày càng có nhiều người biết chữ và hình thức văn học thay đổi, điều này không kết nối chúng ta hơn bao giờ hết mà khiến ngôn từ rút lui vào những phòng khách, phòng ngủ nhàn rỗi và cô độc của những phụ nữ trung lưu. Cuốn tiểu thuyết đã hình thành từ đó thể loại gothic và lãng mạn rác rưởi. Chúng ta đã đánh mất điều gì đó trong sự thay đổi này: cách chúng ta đọc giờ đây mang tính chủ nghĩa cá nhân một cách tự giác.
Nó đang thay đổi một lần nữa trong thời đại internet. Vì ngay cả những người vẫn đọc tác phẩm kinh điển cũng không thoát khỏi những thay đổi này.
Chúng ta có đọc một cuốn sách cho đến hết không? Chúng ta, những người nghiện Internet; nhảy từ trang này sang trang khác; lướt qua “những tiêu đề vù vù”, những cuốn sách nhỏ và bảng tóm tắt (summary)? Vâng, một số người trong chúng ta vẫn làm như vậy. Chúng ta có thể tự chọn thông tin theo cách mình muốn, trau dồi sở thích và danh tính cá nhân bằng cách chọn blog nào chúng ta đọc và những dòng tweet nào chúng ta theo dõi. Chúng ta trở nên kém kiên nhẫn, trở nên… chán nản.
Do đó, điều quan trọng hơn bao giờ hết là sách phải đủ hấp dẫn để thu hút được sự quan tâm của đông đảo người đọc. Leitmotiv là những cuốn sách bán chạy đầy hứa hẹn, đối tượng mục tiêu chuyên biệt và nghiên cứu thị trường duyên dáng. Bây giờ, có các tác giả tự xuất bản, sách self-help, “Plato và Prada”; thế giới blog và quyền truy cập tức thì vào các bài bình luận về các bài bình luận về các kiệt tác; Sách điện tử và “sự vật” của một tập hợp kỳ lạ các ký hiệuđược viết trên một chất liệu gọi là giấy. Tất cả những điều đó, với hình ảnh màu sắc, quảng cáo hấp dẫn và 20 lượt (click) thích yên tâm khi phát hành.
Sách bỏ túi, Ngu Yên soạn dịch và biên tập
Tham khảo:
- Abramson, Seth. Ten Basic Principles of Metamodernism. Huffpost. (Web.)
- Akker, Robin Van Den và Alison Gibbons, Timotheus Vermeule. Metamodernism (Radical Cultureal Studies), 2017, Rowman &Little International.
- Anada, Jason và Joshephson Storm. Metamodernism: The Future of Theory, Fisrt Edision. 2021, University of Chicago Press.
- Kersten, Dennis và Usha Wilbers. Introduction: Metamodernism. 2018 (web)
- Oliveira, Ivo và Emma Ley. The Ism of Literature in the WWW.com. (Web.)