Nguyễn Văn Huy: Chạy đâu cho thoát bàn tay Trung Quốc?
Lời người viết: Những ngày gần đây, hai Đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc cử nhiều phái đoàn cao cấp qua lại giữa hai nước nhằm chuẩn bị chuyến viếng thăm Việt Nam của Tập Cận Bình, đồng thời để trấn an Bắc Kinh về việc Việt Nam đã ký với Hoa Kỳ, nội bộ và Úc những thỏa thuận về quan hệ đối tác chiến lược toàn diện.
Trong thực tế lý do trên chỉ là bề mặt, lý do chính đây là thời điểm để hai nước Việt Nam và Trung Quốc hiện thực hóa những thỏa thuận đã ký kết qua những Tuyên bố chung giữa hai Đảng cộng sản trong những năm trước đó. Trong chuyến viếng thăm của ông Tập Cận Bình sắp tới, chắc chắn hai Đảng cộng sản sẽ ra một Tuyên bố chung cụ thể hóa những gì phải làm trong thời gian tới. Để tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa và những hậu quả cận kề của sự bối rối của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, chúng tôi cho đăng lại một bài nghiên cứu cách đây không lâu (20/6/2019) về quan hệ và sự liên đới phức tạp giữa Đảng cộng sản Việt Nam với Đảng cộng sản Trung Quốc trong những ngày đã qua và trong những ngày sắp tới. (NVH)
*****
Hậu Thành Đô 3 – Trung Quốc muốn làm chủ luôn cả miền Nam
Phần 3
Muốn làm chủ luôn cả miền Nam Việt Nam
Triển khai chiến lược Sáng kiến Vòng Đai Con Đường của Tập Cận Bình trên toàn cõi Việt Nam
Theo nội dung những Tuyên bố chung và Thông cáo chung đã được ký kết từ năm 2000 trở lại đây, mốc năm 2020 đánh dấu sự kết thúc của một chu kỳ để mở ra một chu kỳ mới trong quan hệ hợp tác giữa hai Đảng và hai Nhà nước cộng sản Trung Quốc và Việt Nam.
Nhìn lại những gì mà phía Trung Quốc đã thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam trong suốt 20 năm qua, người Việt có lý do để lo âu về số phận và tương lai của dân tộc và đất nước.
Tổng quát những thực hiện từ năm 2000 đến nay
1. Phía Trung Quốc
Đối với Bắc Kinh, chiến lược xây dựng “hai hành lang, một vành đai kinh tế” trên toàn lãnh thổ miền Bắc Việt Nam coi như hoàn tất. Những mục tiêu mà Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc đặt ra cho Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam đã tiến hành đúng theo những lộ trình được ghi trong từng giai đoạn của những Tuyên bố chung và Thông cáo chung.
1.1. “Hai hành lang, một vành đai kinh tế“
– Hai tuyến đường bộ và đường sắt, gọi là hành lang kinh tế: Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng và Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng đều đã hoàn tất đúng như dự định và đã đi vào hoạt động.
– Vành đai kinh tế trong Vịnh bộ, từ Móng Cái tới Đà Nẵng, đã được tăng cường và củng cố: không nơi nào, không một sinh hoạt kinh tế và dịch vụ nào dọc vùng duyên hải miền Bắc không có bóng dáng người Trung Quốc. Công ty và cơ sở kinh doanh do người Trung Quốc làm chủ mọc lên như nấm và ngày càng lấn át sinh hoạt kinh tế của những cư dân bản địa như buôn bán sỉ và lẽ, nuôi trồng thủy hải sản, chăn nuôi heo gà công nghiệp, dịch vụ du lịch, khách sạn, nhà hàng ăn uống, giải trí, kể cả buôn lậu ma túy và thú quí hiếm.
1.2. Vịnh Bắc bộ, nỗi ám ảnh về an ninh quốc phòng của Bắc Kinh, ngày nay đã được giải quyết.
Sau những thỏa thuận với Đảng cộng sản Việt Nam, Vịnh Bắc bộ đã hầu như trở thành ao nhà của Trung Quốc. Trong suốt 20 năm qua, phía Trung Quốc không ngừng tu chỉnh, sửa đổi nội dung những thỏa thuận về hợp tác cùng phát triển, khảo sát chung, tuần tra chung, tàu hải quân hai nước thăm viếng lẫn nhau. Quan trọng nhất là qua “Thỏa thuận (nhiều lần sửa đổi) giữa Tập đoàn dầu khí Việt Nam (PetroVietnam-PVN) và Tổng công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (China National Offshore Oil Corporation – CNOOC) liên quan tới Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ“, Hải quân Trung Quốc đã hoàn tất việc đo đạc và thiết đặt hệ thống phòng thủ toàn diện trên và dưới mặt biển Vịnh Bắc bộ. Tất cả mọi ra vào Vịnh Bắc bộ của tàu thuyền quốc tế đều phải xin phép Trung Quốc. Cũng nên lưu ý là tàu chiến quốc tế muốn đến thăm Việt Nam chỉ ghé các hải cảng từ Đà Nẵng trở xuống.
1.3. Một toại nguyện khác là an ninh lãnh thổ phía đông-nam của Trung Quốc đã được củng cố: khu vực trái đệm từ Việt Nam đến Myanmar không những đã được thành lập mà còn kết hợp với 4 tỉnh và khu tự trị của Trung Quốc ở vùng biên giới phía nam để thành một tổng thể mới (hiện chưa có anh xưng chính thức).
Từ sau khi trở thành cường quốc kinh tế số 2 trên thế giới, các cấp lãnh đạo Trung Quốc muốn phục hồi lại hào quang và sức mạnh văn hóa, kinh tế và quân sự của thời nha Minh trong quá khứ, đặc biệt là phục hồi lại những lãnh thổ đã mất dưới thời nhà Thanh trong thế kỷ 19.
Đối với người Hán, những sắc dân và lãnh thổ vùng cực nam của Trung Quốc trước kia là những thuộc man và thuộc quốc thần phục Thiên triều phương Bắc. Ngày nay, khi sức mạnh văn hóa, kinh tế và quân sự đã được phục hồi, việc lôi kéo những sắc dân sinh sống dọc vùng biên giới phía nam về lại mẫu quốc là lẽ tự nhiên.
Tại Việt Nam, Bắc Kinh đang tiến hành khôi phục lại khu tự trị biên giới giữa hai nước, gồm 7 tỉnh của Việt Nam: Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh và 4 tỉnh (khu tự trị) của Trung Quốc: Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam và lấy đồng nhân dân tệ là kim bản vị trao đổi chính thức.
Khu tự trị này một cách gián tiếp vô hiệu hóa mọi cố gắng phân định và cắm mốc biên giới của Việt Nam, Hiệp ước biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc ký ngày 31/12/1999 do đó cũng mất hết nội dung.
2. Phía Việt Nam
Một cách khách quan, sau 20 năm thực hiện những thỏa thuận giữa hai Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam – Trung Quốc, mức sống của người dân Việt Nam tại miền Bắc đã được nâng cao so với trước năm 1990, nhiều ngành nghề thu hút đông đảo nhân công phát triển mạnh như may mặc công nghiệp, sản xuất giầy dép, du lịch, nuôi trồng thủy hải sản, chế biến thủy sản…
Danh xưng “cửu vạn” biến mất trong sinh hoạt qua lại biên giới. Vết tích chiến tranh biên giới 1979 đã gần như bị xóa bỏ trong các tỉnh, thành phố bị hư hại trong cuộc chiến như Cao Bằng, Lạng Sơn, Vị Xuyên.
Trung Quốc đã góp phần chính trong việc thay đổi bộ mặt miền Bắc Việt Nam để có dáng bề ngoài phát triển: nhà cửa ẩm mốc và rêu phong trước năm 1990 đã được thay thế bằng những ngôi nhà khang trang bằng vật liệu cứng, nhiều nhà cao tầng đã được xây dựng hàng loạt dọc theo các trục giao thông rộng rãi, hàng quán đông người, hàng hóa sung túc, đông người mua sắm… Người và hàng hóa được vận chuyển nhanh chóng trên các tuyến đường bộ và đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng, đường bộ cao tốc Móng Cái – Vân Đồn, Móng Cái – Hạ Long, Lạng Sơn – Hà Nội. Trong nội thành Hà Nội, tuyến đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông đang đi vào hoạt động.
Sự sung túc này không phải do dân cư miền Bắc tạo ra, mà do Đảng cộng sản Việt Nam mượn bàn tay của Trung Quốc thực hiện, qua trung gian những thỏa thuận đã ký như được công bố trong những Tuyên bố chung.
Trong hàng trăm hải đảo dọc vùng duyên hải miền Bắc, đời sống người dân cũng đã có phần khác trước nhờ dịch vụ buôn bán, nuôi trồng thủy hải sản, du lịch khách sạn và ăn uống.
Một hiện tượng khá phổ biến là không nơi nào không có bóng dáng người Trung Quốc, dưới hình thức thương nhân, ngư dân hay khách du lịch. Chỉ riêng tỉnh Quảng Ninh thôi, sinh hoạt của người Trung Quốc đã gần như áp đảo trong thành phố Móng Cái và 49 đảo trực thuộc tỉnh. Người Trung Quốc sống tập trung trong vịnh Bái Tử Long, đặc biệt là huyện Vân Đồn, nơi có Đặc khu kinh tế Vân Đồn. Xa hơn ngoài khơi thành phố Hải Phòng, người Trung Quốc đang xây dựng những khu nghỉ dưỡng trên các đảo Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Hòn Dậu và quần đảo Long Châu. Tàu thuyền vận tài và đánh cá Trung Quốc lưu hành đông nghẹt trong Vịnh Bắc bộ và ven duyên Móng Cái – Hải Phòng.
Khống chế được những đảo lớn của Việt Nam ngoài khơi Vịnh Bắc bộ này, phía Trung Quốc coi như nắm giữ mọi cửa ngỏ ra vào Vịnh Bắc bộ nói chung và vùng duyên hải miền Bắc Việt Nam nói riêng.
Chi tiết thực hiện những thỏa thuận trong từng lãnh vực
Theo nội dung những Tuyên bố chung và Thông cáo chung đã được công bố, sau 20 năm thực hiện, hai Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam – Trung Quốc đã đạt một số thành quả như sau.
1. Cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước
1.1. Thắt chặt quan hệ giao lưu hợp tác giữa hai Đảng:
– Kế hoạch hợp tác giữa Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng cộng sản Trung Quốc qua các giai đoạn từ 2011 đến 2015 và kế tiếp đã được thực hiện có hiệu quả;
– Các cuộc trao đổi về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và về xây dựng Đảng, quản lý đất nước; các cuộc Hội thảo lý luận giữa hai Đảng, trao đổi kinh nghiệm xây dựng Đảng, quản lý đất nước đã được tăng cường và tổ chức tốt;
– Công tác hợp tác đào tạo cán bộ Đảng và chính quyền đã được mở rộng đến mọi cấp đảng ủy;
– Các cuộc gặp gỡ cấp Trưởng ban theo cơ chế giao lưu, hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại và hai Ban Tuyên truyền hai Đảng đã được tổ chức vào những thời điểm thích hợp;
– Các cuộc giao lưu giữa Quốc hội Việt Nam với Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc, giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Hội nghị Chính trị Hiệp thương Nhân dân Trung Quốc đã thường xuyên hơn để thúc đẩy sự hợp tác hữu nghị tích cực;
– Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc quy hoạch tổng thể và thúc đẩy sự hợp tác toàn diện giữa hai nước trên các lĩnh vực được hai bên nhất trí: kinh tế, thương mại, khoa học, kỹ thuật, văn hóa, giáo dục;
– Thành lập các Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng, Nhóm Công tác về hợp tác tiền tệ, đồng ý tăng cường điều hành, phối hợp giữa các nhóm này và Nhóm Công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển và trên các lĩnh vực phát triển toàn diện.
– Trung Quốc giúp Việt Nam đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý; thành lập cơ chế hợp tác có hiệu quả giữa các bộ, ngành ngoại giao, quốc phòng, công an, an ninh…
1.2. Quan hệ hợp tác quốc phòng giữa hai quân đội:
– Các cuộc tiếp xúc lãnh đạo cấp cao giữa quân đội hai nước đã được tăng cường cùng với việc thiết lập đường dây điện thoại trực tiếp giữa hai Bộ Quốc phòng hai nước;
– Các cuộc Đối thoại chiến lược cấp Thứ trưởng quốc phòng vẫn được tiếp tục;
– Phía Trung Quốc nhận tăng cường hợp tác đào tạo cán bộ và giao lưu sĩ quan trẻ Việt Nam;
– Nhiều thí điểm tuần tra chung trên biên giới đất liền đã được triển khai vào thời điểm thích hợp;
– Hải quân hai nước tăng cường hợp tác trong các mặt như tổ chức tuần tra chung trong Vịnh Bắc Bộ và tàu hải quân hai nước thăm viếng lẫn nhau.
1.3. Quan hệ hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực thi hành pháp luật và an ninh: chuyên gia pháp luật Trung Quốc cố vấn Bộ Công an và an ninh Việt Nam soạn thảo các dự luật an ninh viễn thông (Luật An ninh mạng được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 12/06/2018), một số luật trong các lĩnh vực phòng chống tội phạm kiểu mới như lừa đảo viễn thông và sắp tới đây giúp trang bị hệ thống theo dõi định hình công dân trên khắp các thành phố lớn.
1.4. Về ngoại giao, phía Việt Nam chính thức cam kết:
– ủng hộ lập trường của Bắc Kinh: chỉ có một nước Trung Quốc và không phát triển bất cứ quan hệ chính thức nào với Đài Loan;
– thực hiện “Chương trình hành động triển khai Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc”;
– sử dụng các cơ chế giao lưu, hợp tác giữa các ngành ngoại giao, quốc phòng, kinh tế, thương mại, công an, an ninh, báo chí của hai nước và Ban Đối ngoại trung ương, Ban Tuyên giáo của hai Đảng…
2. Trên đất liền
Chiến lược củng cố khu vực biên giới phía Nam của Trung Quốc được Bắc Kinh tiến hành với ba nước ASEAN: Việt Nam, Lào và Myanmar. Tại mỗi quốc gia, Bắc Kinh thi hành cùng một chính sách: khuyến khích hình thành một vùng trái độn, gọi là “Khu hợp tác kinh tế qua biên giới”, gồm các tỉnh biên giới của quốc gia sở tại với bốn tỉnh và khu tự trị của Trung Quốc: Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Châu và Hải Nam. Với Việt Nam chính sách này mang tên “hai hành lang, một vành đai”, theo đó:
2.1. Ủy ban liên hợp biên giới trên đất liền Việt – Trung là cơ chế thực hiện các văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc, như:
– tăng cường quản lý an ninh, an toàn khu vực biên giới, ngăn ngừa và chống các hành vi vi phạm pháp luật như buôn lậu, giữ gìn an ninh, trật tự khu vực biên giới;
– tăng cường hợp tác về cửa khẩu giữa hai nước và cửa khẩu giữa các địa phương: thúc đẩy việc mở và nâng cấp các cặp cửa khẩu biên giới, áp dụng các biện pháp nâng cao mức độ tiện lợi hóa thông quan, trao đổi, bàn bạc về quy phạm hoạt động mở các đường qua lại tại khu vực biên giới.
2.2. Hai bên đồng ý về phương án tổng thể chung về xây dựng khu hợp tác kinh tế qua biên giới và thúc đẩy các dự án kết nối cơ sở hạ tầng một cách và thiết thực:
– Trung Quốc giúp xây dựng Khu hợp tác kinh tế qua biên giới và tích cực khuyến khích giới đầu tư Trung Quốc vào hai Khu Công nghiệp Long Giang (Tiền Giang) và An Dương (Hải Phòng) ở Việt Nam;
– xây dựng và chỉ đạo doanh nghiệp hai nước thực hiện tốt các dự án hợp tác như gang thép (Thái Nguyên, VNSTEEL, Hòa Phát…) và phân đạm (Ninh Bình, Hà Bắc, Vinachem…) do doanh nghiệp Trung Quốc nhận thầu xây dựng tại Việt Nam;
– thúc đẩy hợp tác trong các ngành nghề nông nghiệp, chế tạo, dịch vụ và các lĩnh vực khoa học công nghệ, y tế, kiểm nghiệm, kiểm dịch, v.v.
2.2. Phía Trung Quốc ủng hộ doanh nghiệp Trung Quốc sang Việt Nam đầu tư phát triển và phía Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi cần thiết cho các doanh nghiệp Trung Quốc sang đầu tư vào các dự án phù hợp với nhu cầu và chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam. Phía Việt Nam tạo thuận lợi để Trung Quốc thành lập Tổng Lãnh sự quán tại Đà Nẵng, bù lại phía Việt Nam được quyền thành lập Văn phòng xúc tiến thương mại tại Hàng Châu.
Hai bên tạo điều kiện để Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) cung cấp các nguồn vốn cho các dự án đầu tư kết nối cơ sở hạ tầng, trong đó khuyến khích sự tham gia của các nhà thầu và nhà đầu tư tư nhân Trung Quốc. Phía Trung Quốc tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi của Trung Quốc và các nguồn vốn khác theo các quy định liên quan.
Đáng lo ngại nhất là, bất chấp khả năng sản xuất của Việt Nam, phía Trung Quốc sửa đổi “Hiệp định thương mại biên giới Việt – Trung”, thúc đẩy thực hiện mục tiêu kim ngạch thương mại song phương đạt 100 tỷ USD vào năm 2017. Chỉ tiêu này buộc phía Việt Nam phải nhập siêu và nợ Trung Quốc ngày càng nhiều hơn.
2.3. Về văn hóa, giáo dục và du lịch:
– “Thỏa thuận trao đổi giáo dục 2011-2015″ cho phép nhân rộng số lượng lưu học sinh Việt Nam sang Trung Quốc học tập.
– Hai nước đã tăng cường các hoạt động giao lưu nhân dân, như Diễn đàn Nhân dân Việt-Trung, Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt-Trung nhằm bồi dưỡng ngày càng nhiều thế hệ tiếp nối sự nghiệp hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc; triển khai mạnh mẽ giao lưu hữu nghị giữa thanh thiếu niên, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức nhân dân; phối hợp tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục truyền thống hữu nghị giữa nhân dân hai nước.
– Ban tuyên giáo Việt Nam tăng cường định hướng dư luận và quản lý báo chí, thúc đẩy tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước, giữ gìn đại cục quan hệ hữu nghị hai nước, làm cho tình hữu nghị Việt-Trung được kế thừa và phát huy rạng rỡ.
– Phía Trung Quốc đã hoàn thành việc xây dựng và đưa vào sử dụng Cung hữu nghị Việt – Trung vào năm 2017, thành lập Trung tâm văn hóa và vận hành có hiệu quả Học viện Khổng Tử tại Đại học Hà Nội.
– Hai nước đã ký “Hiệp định hợp tác bảo vệ và khai thác nguồn tài nguyên du lịch khu vực Thác Bản Giốc” và “Hiệp định về quy chế tàu thuyền tự do đi lại tại khu vực cửa sông Bắc Luân”; giao cho Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới đất liền Việt – Trung quyền quyết định xây dựng và quản lý cơ sở hạ tầng cửa khẩu biên giới hai bên, nâng cao mức độ mở cửa hợp tác của các cửa khẩu biên giới hai nước, đặc biệt là tăng cường sự hợp tác giữa các tỉnh/khu biên giới hai bên, thúc đẩy cùng phát triển khu vực biên giới hai nước…
3. Trong Vịnh Bắc bộ
3.1. Vịnh Bắc bộ là vùng biển chiến lược:
Trong hơn 10 Tuyên bố chung và Thông cáo chung, không lần nào Vịnh Bắc bộ bị quên nhắc tới. Đối với Trung Quốc, Vịnh Bắc bộ chính là trọng tâm của sự hợp tác toàn diện giữa hai đảng và hai nước trong khuôn khổ “hai hành lang, một vành đai”, vì đó là hậu cứ chiến lược bảo vệ “Vành đai và Con đường” do Tập Cận Bình phát động từ năm 2013 và chính thức thực hiện từ năm 2015.
Cũng nên biết, Vịnh Bắc bộ là nơi được Trung Quốc chọn để xây dựng căn cứ tàu ngầm chiến lược (phía tây đảo Hải Nam). Nỗi lo lắng của Bắc Kinh là Việt Nam, nếu không thuyết phục được Hà Nội trong việc phân chia quyền lợi hay quyền lực trong vùng, chiến lược phòng thủ của Trung Quốc trên Biển Đông có thể sẽ bị đe dọa vì Vịnh Bắc bộ là cửa ngỏ ra vào của tàu thuyền Trung Quốc, dân sự cũng như quân sự.
3.2. Nội dung những thỏa thuận:
Hai bên khẳng định tiếp tục phối hợp chặt chẽ, thực hiện tốt “Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ” và “Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ“:
– kiểm tra và điều tra liên hợp nguồn lợi thủy sản trong vùng đánh cá chung, tuần tra chung giữa hải quân hai nước ở Vịnh Bắc Bộ;
– thúc đẩy hợp tác thăm dò, khai thác cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định Vịnh Bắc Bộ;
– tiếp tục đàm phán phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ (tức ngoài khơi Biển Đông, Hoàng Sa và Trường Sa) và tích cực trao đổi về vấn đề hợp tác cùng phát triển, sớm khởi động khảo sát chung ở khu vực này;
– thực hiện các Dự án hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng vịnh Bắc Bộ; nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocene khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang…, tiếp tục thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm cứu nạn trên biển, phòng chống thiên tai và kết nối giao thông trên biển.
Những hậu ý của Đảng cộng sản Trung Quốc
1. Về những thỏa thuận trên đất liền
Hiện nay có bao nhiêu người biết được việc chính thức mở cặp cửa khẩu quốc gia Hoành Mô – Động Trung để làm gì? Có bao nhiêu người biết nội dung “Hiệp định hợp tác khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch khu vực thác Bản Giốc” phân chia quyền lợi như thế nào? Có ai hiểu được hậu ý sâu xa của việc ký kết “Hiệp định tàu thuyền qua lại tự do khu vực cửa sông Bắc Luân”, việc xây dựng các cầu qua lại biên giới như cầu đường bộ Bắc Luân 2, cầu đường bộ 2 Tà Lùng-Thủy Khẩu? Có ai biết có bao nhiêu người Trung Quốc đã sang Việt Nam mua nhà và định cư?…
Có ai biết lý do nào Đảng cộng sản Việt Nam đã thúc đẩy việc mở rộng phạm vi thanh toán bằng đồng “bản tệ” (ngôn từ do chính phía Việt Nam sử dụng, nghĩa là lấy đồng nhân dân tệ làm đồng tiền địa phương)?… Có ai biết việc ký kết “Hiệp định thanh toán bằng đồng bản tệ song phương trong thương mại biên giới” giữa ngân hàng Trung ương hai nước năm 2003 không qua Quốc hội là vi hiến, đe dọa sự độc lập tài chính của Việt Nam?
Có bao nhiêu người biết Khu công nghiệp An Dương ở Hải Phòng đi vào hoạt động từ lúc nào, sản xuất cái gì và ai được vào khu này đầu tư khai thác?
Có ai biết Cung hữu nghị Việt – Trung được xây dựng trên khu đất rộng 14.000 m2, với một tổng đầu tư gần 800 tỷ đồng, do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khánh thành hôm 12/11/2017 với mục đích gì?
Có ai biết dự án Đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông, tuyến đường sắt tốc độ cao Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng và tuyến đường bộ cao tốc Móng Cái – Vân Đồn đã ngốn bao nhiêu tiền ngân sách, Việt Nam đã vay mượn của Trung Quốc bao nhiêu tiền và bao nhiêu công nhân Việt Nam được quyền tham gia vào những công trình xây dựng này?
Có ai hiểu tại sao chỉ những công ty và xí nghiệp Trung Quốc trúng thầu hầu như tất cả những đại dự án và công trình xây dựng hạ tầng cơ sở trên toàn miền Bắc Việt Nam?
Có ai biết trong suốt gần 10 năm đảm nhiệm chức vụ Thủ tướng (27/06/2006 – 7/4/2016), ông Nguyễn Tấn Dũng đã thỏa thuận những gì với Trung Quốc và bao nhiêu công ty Trung Quốc đã vào Việt Nam xây dựng cơ sở?
Và đáng lo âu nhất là có ai biết bao nhiêu đảng viên cấp chính ủy đảng bộ trung ương và địa phương, cấp ủy đảng bộ quân đội, công an, an ninh, sĩ quan cao cấp trong các binh chủng đã được đưa sang Trung Quốc đào tạo về chính trị và đường lối hợp tác? Có ai biết sau khi về lại Việt Nam những người này đã nắm những chức vụ gì trong những cơ quan và guồng máy đảng, chính quyền, quân đội và công an? Mỗi năm có bao nhiêu sĩ quan trẻ trong các binh chủng, bao nhiêu thanh niên ưu tú của Việt Nam đã được sang Trung Quốc đào tạo?
Để trả lời, sau những thỏa thuận đã ký với Trung Quốc, chỉ riêng một quyết định về đất đai do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 21/08/2006, số 1107/QĐ-TTg, dưới tên gọi “Quy hoạch phát triển của khu công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020″, Việt Nam đã cho phép những người nước ngoài có quyền sử dụng một diện tích đất tổng cộng gần 32.400 ha, trong đó: Danh mục 1 gồm 117 khu công nghiệp (26.823 ha) dự kiến ưu tiên thành lập mới đến năm 2015 và Danh mục 1 với 27 khu công nghiệp (5.560 ha) dự kiến mở rộng để đầu tư và xây dựng cơ sở. Các danh mục này không bao gồm các khu công nghiệp thuộc các khu kinh tế đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt quy hoạch chung từ trước. Đây là một trong những cánh cửa mở ra cho doanh nghiệp Trung Quốc tràn vào Việt Nam chọn những vùng đất tốt để đầu tư và cho tham nhũng bất động sản trong nước hối mại quyền thế để ăn chia.
2. Về những thỏa thuận trong và ngoài Vịnh Bắc bộ
2.1. Trong Vịnh Bắc bộ:
Trong những Tuyên bố chung, phía Trung Quốc không ngừng nhắc nhở phía Việt Nam phải thực hiện tốt “Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ” và “Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ“.
Không chỉ riêng về nghề cá (giữ gìn trật tự sản xuất nghề cá bình thường, tích cực triển khai hợp tác nghề cá), phía Trung Quốc còn gợi ý thực hiện “Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ được ký kết giữa doanh nghiệp hữu quan hai nước, nhất trí mở rộng diện tích khu vực thỏa thuận, kéo dài thời hạn thỏa thuận, cùng nhau thúc đẩy hoạt động thăm dò chung, phấn đấu sớm đạt kết quả thực chất trong hợp tác thăm dò, khai thác chung các cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định Vịnh Bắc Bộ; bảo vệ môi trường, tìm kiếm cứu nạn trên biển ở Vịnh Bắc Bộ.
Hậu ý của những đề nghị này đã quá rõ ràng:
– Nguồn cá trong Vịnh chắc chắn không còn nhiều vì tàu thuyền đánh cá của Trung Quốc được trang bị hiện đại hơn đã đánh bắt cạn kiệt, chỉ còn lý do nguồn dầu khí. Nhưng theo những khảo sát gần đây nhất, trữ lượng dầu khí dưới Vịnh Bắc bộ là không đáng kể (1), như vậy chỉ còn lý do quân sự.
– Về quân sự, lo âu của Trung Quốc là dưới lòng biển. Căn cứ tàu ngầm chiến lược của Trung Quốc nằm trong Vịnh Bắc bộ, đúng hơn là trong vịnh Bắc Hải-Thanh Bình, tỉnh Quảng Đông, chứ không phải ở đảo Hải Nam như đồn đoán. Với thỏa thuận cùng khai thác cấu tạo dầu khí vắt ngang Vịnh Bắc bộ, hải quân Trung Quốc có quyền tiến sát vào vùng bờ biển Việt Nam đặt cáp (cable) ngầm dưới dáy biển để phát hiện sự qua lại của tàu thuyền và tàu ngầm, đồng thời cũng để phát hiện thủy lôi của kẻ thù có thể lẻn đặt vào vùng biển này.
Để trấn an phía Việt Nam, Bắc Kinh gia tăng mật độ đàm phán của Nhóm công tác chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển Việt-Trung. Trong năm 2013, Trung Quốc thực hiện ba dự án tưởng như vô thưởng vô phạt, đó là Dự án về phối hợp tìm kiếm cứu nạn trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc và Dự án hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường bi