Trần Mộng Tú: Vĩnh biệt Trần Hoài Thư
Nhà văn Trần Hoài Thư, chủ nhân của Thư Ấn Quán, người phục hồi di sản văn học miền Nam 1954-1975 đã qua đời ngày 27-5-2024, đúng 1 tháng sau khi hiền thê của ông, bà Nguyễn Ngọc Yến mất ngày 27-4-2024.
Kệ sách trong buồng ngủ của tôi có:
- Thơ miền Nam trong thời chiến:
Gồm 263 nhà thơ miền Nam sáng tác cho chiến tranh
Tập I: 856 trang
Tập II: 741 trang
Tổng cộng 1600 trang giấy
- Thơ tự do miền Nam, 660 trang
- Tuyển tập Thơ- Ô Cửa
Toàn tập của Trần Hoài Thư, 380 trang.
Tất cả, với chữ ký đề tặng của tác giả.
Khi nhận được Thơ miền Nam trong thời chiến tôi thật sự bàng hoàng về số thơ viết ra trong chiến tranh của miền Nam sao có thể nhiều đến như thế. Mỗi người lính, mỗi thân nhân của lính hình như đều là thi sĩ cả.
Nhờ có cuốn Thơ miền Nam trong thời chiến mà tôi biết được bài thơ Ở rừng U Minh ta không thấy em của tác giả Nguyễn Tiến Cung (Phạm Duy phổ nhạc). Một bài thơ về cuộc chiến, nhưng không có máu chảy, không có bom đạn, chỉ có hình ảnh mấy cây tràm gày như dáng người con gái, và người lính với cây súng ướt nòng. Bài thơ mà bất cứ lúc nào đọc lại hay nghe ai đó hát cũng làm tôi chảy nước mắt.
Trần Hoài Thư và hiền thê đã để lại một công trình to tát: bảo tồn di sản văn học (với đúng ý nghĩa nhất) cho thế hệ Việt Nam lưu vong sau này hiểu được thế nào là chiến tranh mà người Việt của cả hai miền cùng gánh chịu.
Đây là một công trình quý báu, một đóng góp giá trị cho những thế hệ con cháu Việt Nam Cộng Hòa sau này khi muốn tìm hiểu về văn học của các bậc cha ông trong thời chiến.
Trần Mộng Tú
5-27-2024
**
Dưới đây là bài thơ Trần Mộng Tú viết tặng Trần Hoài Thư khi nhận được những tập sách tác giả gửi tặng.
“THƠ MIỀN NAM TRONG THỜI CHIẾN” (*)
Gửi Trần Hoài Thư
Em úp mặt vào trang giấy trắng
đọc những bài thơ viết giữa chiến tranh
em thương những tình yêu khép mắt
thương những nỗi buồn vàng ngón tay anh
Mỗi trận đánh mang một tên riêng
nhưng nỗi buồn không tên gọi
anh giơ mãi tay ra
không với được hòa bình
vuốt mặt thấy đời mình như rừng đang cháy
những tàn tro
thương tích bật thành thơ
Bây giờ tìm anh biết tìm ở đâu
trên đỉnh Trường Sơn
hay vũng lầy Đồng Tháp
mặt trận đã yên thời gian mục nát
có ai vừa cúi nhặt
được câu thơ
Giải khăn tang mấy mươi năm vàng ố
mấy mươi năm mà vết sẹo còn mưng
mở những trang thơ
rào rào tiếng đạn
bay vào thành phố
như tiếng vỗ cánh của bầy chim ưng
Thơ cắm súng trên mộ phần
người lính trẻ
giầy saut, nón sắt xếp thẳng hàng
thơ vẽ thêm người con gái
hai tay úp mặt
vạt áo nhầu tóc rối dưới khăn tang
Mấy mươi năm bao nhiêu hồn rất mới
đã nhăn nheo theo cuộc chiến hoang tàn
bao đôi mắt sáng ngời vùi dưới đất
trái tim nguyên còn rất đỗi nồng nàn
Mấy mươi năm anh có đời lưu lạc
ở nơi nào cũng cúi xuống nỗi đau
mấy mươi năm em sống đời ngơ ngác
thơ nhặt từng câu
vẫn thấy xót thương nhau
Ôi cuộc chiến đã đi qua
chúng ta mất hết
tình yêu
tuổi trẻ
và những ước mơ
thơ giúp em giữ mãi một điều gì thiêng liêng
không mất được
nhưng cũng không tìm lại được bao giờ.
Tháng 1/2008
Khi nhận được: Thơ miền Nam trong thời chiến, Thư Ấn Quán sưu tập và xuất bản, chủ biên: nhà văn Trần Hoài Thư và bằng hữu.