Trùng Dương: Một mùa xuân ‘ngưng bắn’ và giấc mơ ‘Chung Sống’

Người bạn chuyển cho bức hình nhặt được trên mạng, cho thấy là bìa giai phẩm xuân của nhật báo Sóng Thần Xuân Quý Sửu 1973, có chủ đề “Xuân Chung Sống”. Tôi không khỏi ngạc nhiên lẫn thích thú thấy lại bìa của số xuân có hình mấy cậu bé chăn trâu đang vui đùa trong cảnh thanh bình, và một chủ đề khá đặc biệt, nếu không nói là lạ khi đặt sự ra đời của nó vào bối cảnh của một Miền Nam đang sôi sục lửa đạn lúc ấy. 

Thú thật là tôi hoàn toàn không nhớ tới việc nhật báo Sóng Thần do tôi đứng tên chủ nhiệm đã phát hành số báo xuân với chủ đề đặc biệt này. Đã nửa thế kỷ lẻ một năm qua rồi còn gì, nhất là lúc này ở tuổi ngoài 80, ký ức đã bắt đầu mai một đi nhiều. 

Bìa giai phẩm Xuân báo Sóng Thần 1973, với chủ đề “Xuân Chung Sống”.

Tìm hiểu thêm trên mạng, tôi được biết bức hình bìa ấy nằm trong bài viết “Phong vị báo xuân xưa: Bài vở trên giai phẩm xuân” của Phạm Công Luận, một nhà báo trong nước viết cách đây sáu năm. Tìm hiểu thêm nữa thì được biết nhà báo này cũng đã xuất bản một cuốn sách, trong đó có bài này, sưu tầm khá công phu các báo xuân xuất bản ở Miền Nam từ thời còn Pháp thuộc, tựa là “Sài Gòn – hương vị báo xuân xưa”, dầy 336 trang, khổ 19 x 21 cm, do NXB Văn Hóa – Văn Nghệ xuất bản năm 2018, theo nhà phát hành Fahasa.com. Sách giấy đã bán hết, tôi tìm xem có ebook nhưng không thấy, song tôi tìm được cuốn dạng flipbook chỉ đọc được trên mạng, không gửi vào Kindle để đọc ngoài mạng, và cũng chỉ có 318 trang, nhiều trang hình nhưng thiếu các chi tiết khác của sách như mục lục, nhà xuất bản, nơi in ấn, vv. 

Thành thực, tôi phải cám ơn tác giả đã cất công sưu tầm và gom lại thành một tập sách lưu giữ cho các thế hệ sau một phần tài liệu đặc biệt và quý giá về một sinh hoạt văn hóa rất đặc thù này của Miền Nam.

Trong bài này tôi sẽ chỉ chuyên chú vào số báo xuân Sóng Thần có chủ đề Xuân Chung Sống độc đáo này. Bài sẽ gồm hai phần: Trước hết là nội dung các báo xuân nói chung và phần về giai phẩm xuân Sóng Thần nói riêng qua phần trình bầy của tác giả Phạm Công Luận; và sau là bối cảnh trong đó nảy sinh chủ đề “Xuân Chung Sống” này.

Mạn phép tác giả, và để độc giả nào không tiện lên mạng đọc, tôi chép lại phần đầu của bài báo của ông với những chi tiết thú vị đầy sắc thái Miền Nam.

Nội dung báo xuân xưa 

Các giai phẩm xuân ở miền Nam từ khoảng giữa thế kỷ 20 đến sau này, thường thấy bài bản tổ chức nội dung na ná nhau, với các mục như Thơ ông Táo, xuân con gì kể chuyện con đó, trang thiếu nhi, tử vi cả năm… Phần văn nghệ, nhất thiết phải có kể chuyện ăn tết khắp nơi. 

Bài tết đặc sắc trên báo xuân thập niên 1950 và đầu thập niên 1960 thường là chuyện “Tết khổ sở”, trong đó kể những trải nghiệm ăn tết trong tù: hết ăn tết trong khám Chí Hòa, ở Côn Đảo lại ăn tết ở khám lớn Sài Gòn, ở Hỏa lò Hà Nội. Ăn tết trong tù chưa đủ, đến chuyện ăn tết với người Thượng trên cao nguyên, ăn tết kháng chiến trong rừng U Minh… Kiểu bài thứ hai là bài “xông đất”. Hết xông đất các tòa soạn báo, rồi lại xông đất các nghệ sĩ với những dự định diễn xuất trong và sau tết. Có báo như Đời Mới thì quan tâm đến người nghèo, đi hỏi chuyện người nghèo ăn tết, hỏi từ viên công chức ở Bàn Cờ đến anh thợ hớt tóc ở Phú Nhuận. Đặc biệt, các báo xuân miền Nam rất chuộng đăng bài giai thoại về nhà văn, nhà thơ nổi tiếng, nhất là về nhà thơ Tản Đà. Đại thi sĩ này rất được yêu quý nên chỉ trong thời gian ngắn ông vào Gia Định viết cho báo Thần Chung và Đông Pháp Thời Báo cũng đủ nảy sinh những chuyện thú vị về ông đăng dài dài trên một số tờ báo xuân sau này. Bên cạnh đó còn có các giai thoại về các nhà thơ, nhà văn khác như Phan Khôi, Nguyễn Bính, Hồng Tiêu, Bùi Thế Mỹ, Lê Văn Trương… 

Bài báo viết về nội dung của một số báo xuân mà tác giả sưu tầm được:

Giai phẩm Đuốc Nhà Nam số xuân 1971 chuyên đề đặc biệt Tiền được coi là “công trình sưu khảo” có các bài viết khá hấp dẫn từ các ký ức thời xa xưa về đồng tiền Đông Dương, chuyện đồng tiền những năm Đại khủng hoảng kinh tế 1929 -1933 đến giá trị đồng bạc đương thời. Chuyên đề về kinh tế Hoa Kỳ trên giai phẩm Thần Chung của báo Đại Dân Tộc năm 1975 chiếm 70% số trang báo. Trên giai phẩm Thời nay xuân Bính Ngọ năm 1966, phụ trang đặc biệt “100 năm báo chí VN” có nhiều bài hay như Lịch trình tiến hóa, Tiếng Việt qua 100 năm báo chí, 50 năm làng báo đất Thần kinh, Giở chồng báo cũ, Gia Định báo, Bút chiến, hí họa. Các chuyên đề trên báo xuân là nguồn tư liệu tham khảo rất đáng quý cho người viết thế hệ sau.

Báo xuân thường có những bài tổng kết có giá trị, như Nhìn về văn chương VN trong năm 1969 (Nguyễn Nhật Duật – Khởi Hành 1970), Làng báo Sài Gòn 21 năm về trước – Trần Tấn Quốc (báo Hương Xuân, năm Đinh Dậu 1957)… Hoặc có những bài báo chỉ đọc tựa là thấy hấp dẫn như: bài Toàn quyền Decoux vác bạc Mỹ của quân đội Pháp đã vứt bỏ xuống sông Kỳ Kùng (Lạng Sơn) hồi Tết 1885 của A Mi, báo Việt Thanh số xuân 1952; bài Ngày xuân nghe chim hót hay là đi xem những cô Thanh Nga tập sự của Sơn Nam (Tin Sớm – xuân Bính Ngọ 1966); bài Một đêm 30 tết rùng rợn, chuyện có thật xảy ra năm 1928 của Nhã Hiền (Thời Cuộc – Canh Dần 1950); bài Người Việt miền Nam có lắm tật xấu đáng yêu của Sơn Nam (Thời Nay – Kỷ Dậu 1969).

Riêng về số xuân Sóng Thần, tác giả Phạm Công Luận viết:

Đặc biệt, có những tờ báo làm khá bài bản một tờ báo xuân tập trung chuyên đề riêng. Ví dụ: giai phẩm Xuân báo Sóng Thần số xuân 1973 làm chuyên đề Chung sống, trong đó, hầu hết bài vở xoay quanh câu chuyện những đối tượng khác nhau, đối lập nhau, đặt vấn đề liệu họ có thể chung sống yên bình, hài hòa với nhau không. Đề tài cho chủ đề này khá đa dạng, như “Nghệ sĩ và chung sống”, “Thế giới sắp chung sống và hòa bình”, “Cuộc trao đổi sinh hoạt nghệ thuật cải lương Bắc Nam hồi tiền chiến”… và những bài báo về triển vọng kinh tế và viện trợ cả hai miền sau khi chiến tranh chấm dứt, chuyện sống chung của hai mẹ con, hai thế hệ cách xa với hai cách nghĩ khác nhau.

Lục lại các số báo Sóng Thần đã được anh Võ Phi Hùng ở Virginia cất công chụp lại từ các cuốn microfilm mượn được từ thư viện của Đại học Cornell, hiện được tồn trữ tại Kho Sách Cũ, tôi tìm thấy quảng cáo về số báo “Xuân Chung Sống” độc đáo đó, xin chia sẻ dưới đây, dù không còn rõ nét.

Quảng cáo giai phẩm Xuân Chung Sống Quý Sửu 1973.

Bối cảnh hình thành số báo xuân ‘Chung Sống’

Mồng một Tết Quý Sửu năm 1973 rơi vào ngày 3 tháng 2 năm 1973 theo  dương lịch, năm ngày sau khi Hiệp định Ngưng bắn và Vãn hồi Hòa bình được ký kết tại Paris, kết thúc cuộc hòa đàm kéo dài từ sau cuộc tổng tấn công của Việt Cộng, tức Mặt trận Giải phóng Miền Nam, vào dịp tết Mậu thân 1968. Cuộc tấn công này đã giết hại hàng ngàn dân lành song cũng khiến Mặt trận mất hơn nửa quân số, khiến Hà Nội phải đưa quân chính quy vào tham chiến trong trận Mùa xuân/hè 1972. Hoa Kỳ, dù vậy, bị áp lực của công chúng, đã thỏa thuận mở cuộc hoà đàm kể trên tại Paris, bắt đầu từ cuối năm 1968.

Sau năm năm đàm phán, Hiệp định Ngưng bắn được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973 giữa một bên là Hoa Kỳ với Việt Nam Cộng Hòa và bên kia là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Bắc Việt) với Mặt trận GPMN. Do chỗ miền Nam Việt Nam bấy lâu không công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời của Mặt trận, và khởi đầu hòa đàm cũng đã từ chối công nhận Mặt trận là bên tham gia hợp pháp vào các cuộc thảo luận để chấm dứt chiến tranh, nên tất cả các tài liệu tham khảo về hiệp định chỉ giới hạn trong phạm vi hai bên của văn kiện được miền Bắc Việt Nam và Hoa Kỳ ký, trong khi đó VNCH ký trên một văn kiện riêng không có phần đề cập đến chính phủ Việt Cộng.

Trái, trang đầu của Hiệp định Đình chiến Paris ký ngày 27 tháng 1, 1973. Giữa và phải, trang nhất của nhật báo New York Times ngày 28 (hoặc 29) tháng 1, 1973, và trang nhất Nhật báo Sóng Thần ngày 29 tháng 1, 1973. (Ảnh Internet và tư liệu)

Theo nội dung ký kết, một lệnh ngừng bắn trên khắp Việt Nam được ban hành. Ngoài ra, Hoa Kỳ còn đồng ý rút toàn bộ quân đội và cố vấn Hoa Kỳ (tổng cộng khoảng 23.700) và dỡ bỏ tất cả các căn cứ của Hoa Kỳ trong vòng 60 ngày. Đổi lại, Bắc Việt đồng ý thả tất cả tù binh Mỹ và các tù binh chiến tranh khác.

Qua Hiệp định Paris Hoa Kỳ đã thực hiện việc rút chân ra khỏi Việt Nam trong danh dự sau khi đã bắt tay được với Trung Cộng, và quan trọng hơn cả là đem các quân nhân Mỹ bị bắt làm tù binh về đoàn tụ với gia đình họ. Đồng thời với việc mở bang giao với Trung Cộng và việc cắt đứt liên hệ ngoại giao với Đài Loan (như một điều kiện để bang giao với Trung Quốc), Mỹ vừa chia rẽ khối Cộng giữa Nga Sô và Trung Quốc bấy lâu tưởng là đồng nhất trong chiến dịch nhuộm đỏ toàn cầu trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh (1947 – 1991), vừa để có dịp khai thác một thị trường béo bở phong phú nhân vật lực của Trung Hoa.

Nhưng nhiều người Việt Miền Nam lúc ấy không nghĩ được, hay cả không muốn nghĩ như vậy dù có biết những diễn biến hậu trường. Mệt mỏi với chiến tranh, nhiều người thèm khát hòa bình với bất cứ giá nào. Bản chất của dân Miền Nam nói chung vốn tình cảm, dễ dãi, vị tha, và theo tôi, có phần nhẹ dạ và hơi lãng mạn nữa. Nên dù không mấy tin ở thiện chí của phe cộng sản, nhưng vẫn nghĩ cùng nòi giống với nhau thì đâu nỡ lòng thù ghét và hại nhau. 

Đặc tính tình cảm này tôi nhận thấy rõ ràng nhất ở vị chủ biên Sóng Thần dạo ấy, là nhà văn nhà báo Chu Tử, người đã từng đưa ra nhiều sáng kiến độc đáo. Một trong những sáng kiến của ông mà tôi có kinh nghiệm trực tiếp, là việc ông đề nghị tôi viết “hồi ký” giùm kẻ đã bắn ông vào mùa xuân năm 1966 khi ông còn là chủ nhiệm nhật báo Sống. Bài đăng từng kỳ trên Sóng Thần, một cách để giữ chân độc giả vì đó quả là một chuyện hy hữu. 

Ông Chu Tử trước khi làm báo đã từng là một nhà viết tiểu thuyết nổi tiếng, vốn có một số lớn độc giả mến chuộng qua nhiều tác phẩm nội dung táo bạo so với thời đó, với tựa chỉ có một chữ, như “Yêu”, “Ghen”, “Loạn”, “Sống”, “Tiền”. Làm báo, ông cũng sôi nổi không kém. Vốn trực tính, ông có khuynh hướng nói thẳng những điều mình nghĩ qua mục phiếm luận có tên là Ao thả vịt, châm biếm nhiều chuyện và các nhân vật trong xã hội khiến nhiều độc giả thích thú, song cũng bị không thiếu người oán hận. Rồi ông bị bắn, nhưng thoát chết. Tôi có viết về vụ này trong bài “Nhìn lại vụ Chu Tử bị ám sát hụt, ngày 16-4-1966”, hiện lưu lại trên trang mạng của đài VOA. 

Loạt bài, tựa do chính ông chọn là “Tôi bắn Chu Tử”, dựa vào hai trang viết tay ông ghi lại cuộc gặp gỡ vào một buổi tối với một người nào đó tự nhận đã bắn ông vì anh ta tự nhận là Phật tử trung thành của một vị thượng tọa đã bị ông Chu Tử lùa vào Ao thả vịt của ông, không ngoài mục đích chia rẽ các nhân vật của Miền Nam. Tuy nhiên, người đó có phải là kẻ bắn ông thật hay không thì vẫn là một câu hỏi sẽ không bao giờ có câu trả lời, dù kẻ bắn ông thực sự đã được phát hiện qua hồ sơ bắt được và sau này đã trở thành công khai, đó là một tên đặc công Việt cộng nằm vùng. Cũng tên này đã hạ sát ký giả Từ  Chung của báo Chính Luận trước đó vài tháng.

Tuy vậy, ngay sau khi thoát chết, ông Chu Tử vẫn cho kẻ mưu sát ông là người bên quốc gia vốn thù nghịch với ông. Trong cuốn “Chu Tử không hận thù” (Sống, Sài Gòn 1966; Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ 1987, hiện lưu tại Thư viện Quốc hội), ông còn, một cách rất hào sảng, cám ơn người đã bắn ông, cho ông kinh nghiệm thế nào là giáp mặt tử thần để từ nay viết văn ông không còn phải tưởng tượng nữa.

Thành ra, không có gì là lạ khi ông đưa ra sáng kiến làm số báo xuân Quý Sửu 1973 với chủ đề “Xuân Chung Sống” vào thời kỳ Miền Nam đang ráo riết chuẩn bị cho một cuộc ngưng bắn mà rút cục chỉ có trên giấy tờ, và một cuộc chung sống mơ ước nhưng không hề xẩy ra. 

Sau khi Hiệp định Ngưng bắn và Vãn hồi Hòa bình được ban hành, tiếng súng vẫn nổ, người vẫn chết, ruộng đồng nhà cửa làng mạc vẫn tan hoang. 

Tờ New York Times tường trình vào ngày 29 tháng 3 năm 1973, như sau: 

Hai tháng trước, Hoa Kỳ, Bắc Việt, Nam Việt Nam và Việt Cộng [tức Mặt trận GPMN] đã ký một thỏa thuận tại Paris “về việc chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam”. Tổng thống Nixon tuyên bố vào thời điểm đó rằng “hòa bình trong danh dự” đã đạt được.

Trong 60 ngày sau đó, Hoa Kỳ được cho là sẽ rút toàn bộ quân khỏi Việt Nam, Bắc Việt và Việt Cộng được cho là sẽ thả tất cả tù binh chiến tranh Mỹ. Những mục tiêu đó đang được thực hiện.

Đối với một số người thì mọi chuyện đã kết thúc. Như một số nhà quan sát lập luận, nếu mục đích chính của hiệp định Paris là rút Hoa Kỳ khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam, thì có vẻ như nó đang thành công, đối với Hoa Kỳ và Bắc Việt Nam—vốn không còn là mục tiêu của các cuộc không kích của Mỹ —chiến tranh đã kết thúc.

Nhưng nếu thỏa thuận cũng tìm cách — như các điều khoản và nghị định thư của Hiệp định nêu rõ — là nhằm khôi phục hòa bình ở Việt Nam, thì bằng chứng cho thấy đây là một sự thất bại gần như thường xuyên. Cuộc giao tranh ở miền Nam Việt Nam, đáng lẽ phải kết thúc theo thỏa thuận, vẫn tiếp tục bùng phát — mặc dù ở mức độ tương đối thấp vào thời điểm hiện tại — rất lâu sau khi các quan chức Mỹ tin rằng sẽ dần dà chấm dứt. Sài Gòn và Cộng sản tố cáo nhau vi phạm lệnh ngừng bắn mà không quan tâm đến nội dung cũng như tinh thần của thỏa thuận.

Tình hình cho thấy có nhiều triển vọng đe dọa tới hòa bình trong tương lai ở Việt Nam khi có tin cho biết Bắc Việt đã gửi 40.000 tân binh, 300 xe tăng và hàng trăm khẩu pháo vào miền Nam Việt Nam kể từ khi ký kết thỏa thuận, trong khi việc này rõ ràng là bị cấm. …

Bộ máy gìn giữ hòa bình do Hiệp định Paris tạo ra đã tỏ ra bất lực, chẳng những ủy ban liên hợp quân sự bốn bên đã không ngăn được cuộc chiến cũng như không cáo buộc việc tiếp tục chiến đấu. Ủy ban chưa hề gửi người đi tham quan nhiều hơn là chỉ tới một phần nhỏ các địa điểm được chỉ định trên khắp đất nước và bây giờ không còn tồn tại nữa và cũng không còn hoạt động như một cơ quan gìn giữ hòa bình như đã được thành lập. Ủy ban Kiểm soát và Giám sát Quốc tế đã sa lầy trong sự chia rẽ về ý thức hệ giữa một bên là Hungary và Ba Lan và một bên là Canada và Indonesia và không có tác động đáng kể nào trong việc giảm bớt giao tranh.

Bài báo New York Times kết luận: “Do đó, cả hòa bình cũng như cơ chế dựng nên với mục đích tái lập hòa bình đều đã không đạt được.”

Trang nhất báo Sóng Thần, số ra ngày 1 tháng 2, 1973, năm ngày sau khi ký hiệp định Ngưng bắn và hai ngày trước Mồng Một Tết năm Quý Sửu 1973, trái. Tuy nhiên, bình luận gia Trần Văn Bình vẫn nuôi “Hy vọng trong mùa xuân mới” nơi trang 2 của số báo Sóng Thần ra sau những ngày nghỉ Tết, ngày 8 tháng 2, 1973, với bài viết trên. (Kho Sách Xưa)

Và, như mọi người đã thấy, cũng không có sự chung sống như mơ tưởng sau khi Cộng sản chiếm trọn Miền Nam hai năm sau đó. Trong cơn say chiến thắng và để trừ cái mà họ cho là hậu họa, họ đã lùa hàng trăm ngàn dân quân cán chính của chế độ VNCH vào các trại tù lao động khổ sai gọi là để “cải tạo”, phí phạm bao nhân tài của đất nước. 

Nửa thế kỷ đã qua, hòa bình có đấy nhưng chỉ là lớp son phấn che đậy những rệu rạo mục nát của một chế độ già nua cằn cỗi không còn khả năng sáng tạo, trên một đất nước và môi trường với vô vàn thách thức. 

Chỉ riêng về môi trường, và đây là điều tôi cho là quan trọng hơn cả, trước mối đe dọa do nạn thiếu nước vì sông Mekong liên tục bị chặn từ đầu tới hạ nguồn bởi hàng chục đập thủy điện (chưa kể dự án Kênh Phù Nam của Cao Mên đang thành hình) trước khi trở thành sông Cửu Long, và với nạn nhập mặn ở vùng đồng bằng vựa-thóc-của-quê-hương, Việt Nam sẽ còn lại gì trong vài thập niên tới? 

Được biết một số hồ chứa nước đang được dự tính thực hiện tại vùng Đồng bằng Sông Cửu Long—một điều lẽ ra phải đã hiện hữu từ đôi ba thập niên nay rồi, từ khi nhà văn Ngô Thế Vinh lên tiếng báo động về một “Cửu Long cạn nguồn, Biển Đông dậy sóng” và “Mekong, Dòng Sông Nghẽn Mạch”, mới phải.

Trùng Dương