Về những người chết trong và vì chiến tranh. Thơ Đặng Tiến (Thái Nguyên)

VỀ NHỮNG NGƯỜI CHẾT TRONG VÀ VÌ CHIẾN TRANH
[Nhân ngày 30 tháng Tư 2025]
Anh trai tôi vào lính khi vừa tròn mười tám tuổi
Sau nửa năm về phép một lần
Rồi ra đi, ra đi mãi mãi
Chết năm Mậu Thân ở phía tây Quảng Ngãi
Trúng pháo, bị thương, kiệt sức và chết giữa mùa mưa
Một tấm ảnh để lại ố vàng
Anh tôi mãi mãi tuổi hai mươi
Hình như chưa một lần nắm tay bạn gái…
Bạn của anh tôi
Bê quay
Sống lẩn khuất và cúi mặt cả chục năm dài
Ngôi nhà rìa làng hoang lạnh
Không vợ con
Và chết vì tai nạn lúc làm thuê
Đám ma lèo tèo mấy người đưa
Hoàng hôn nhập nhoạng
Không trống, không kèn, không tiếng khóc
Nỗi u uất đè nặng tim tôi đến tận bây giờ
Bà mợ tôi có chồng ra trận
Biền biệt tháng biền biệt năm
Một mình mợ gồng mình gánh giang sơn nhà chồng
Những viên bi lặn sâu vào da thịt
Chết tức tưởi
Những viên bi không biết được chế tạo từ nơi nào
Theo bà xuống mộ
Âm u bóng đêm…
Tôi nhớ như in
Năm ấy tôi vào Quảng Trị
Mùa hè đỏ lửa
Cối xay thịt người
Thành cổ trưa hè gay gắt nắng
Hoa phượng đỏ lóa mắt
Cỏ xanh rờn rợn lạnh
Tôi không dám nhìn
Nhắm mắt
Và cứ hiện lên
Thịt xương người vương vãi
Và những con ruồi
Nhi nhúc những ruồi
Nhởn nhơ tự tin béo múp…
Chiến tranh
Những người vô danh
Về với đất.
***
ĐỂ NHỚ MỘT LẦN MỘT MÌNH ĐỨNG BÊN SÔNG BẾN HẢI
Cây cầu tôi đã từng đi qua
Khúc sông hẹp cũng từng cúi đầu đứng lặng
Nơi chia cắt…
Lạnh lùng những toan tính
Nỗi đau nhân đôi
Bài hát cũ từng rơi nước mắt khi nghe
Bỗng hóa thành nhạt nhẽo
Cầu Hiền Lương!
Cầu Hiền Lương!
Sông Bến Hải!
Sông Bến Hải!
Tôi muốn gào thét cho vỡ lồng ngực
Cho vơi bớt nỗi lòng bi ai trầm uất
Kết cục tôi đứng như hóa đá
Lặng câm
Nhói buốt
Cầu Hiền Lương mấy bước
Sông Bến Hải mấy sải bơi
Đất nước chia đôi
Lòng người chia đôi
Lối đi vòng vạn dặm
Vạn dặm máu chảy đầu rơi
Vạn dặm sầu thương
Bạt ngàn mộ địa
Bạt ngàn hoang tàn đổ nát
Bạt ngàn khổ đau bất hạnh
Ngút ngàn khói hương đắng chát
Âm âm tiếng khóc đêm dài
Buốt giá từng sợi tóc
Bến Hải, sông ban mai lặng ngắt
Hiền Lương, cầu màu sơn đổi mấy lần
Để hôm nay cho tôi được đứng nơi đây cúi đầu tê tái
Những câu hỏi miên man ném trời xanh
Loạn li chia cắt
Trang sử cũ bao phen ghi bằng máu
Máu của những đứa con cùng chung tiên tổ
Cùng đọc Nguyễn Du cùng kể Lục Vân Tiên
Cùng thuộc nằm lòng những câu ca đầm đìa nước mắt
“Khôn ngoan đối đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau…”
Bến Hải một thời giới tuyến
Còn những Bến Hải nào trong lòng bạn lòng tôi?
Cầu Hiền Lương xin đừng bao giờ gãy gục
Những bài ca thảm sầu khắc khoải
Để nước cuốn trôi
Xin đừng nhắc lại…
***
GHI Ở BẾN TRẦN ĐỀ
[Bữa ấy, đứng chờ tàu cao tốc ra Côn Đảo, ba bề bốn bên toàn là nước. Nơi sông Hậu sắp ra biển…]
Mênh mang nước quanh tôi toàn nước
Phù sa ngầu đục lững lờ trôi
Sắp ra biển! Sắp ra biển lớn
Nước bâng khuâng như chẳng nỡ rời.
Chẳng nỡ rời. Ngút ngát châu thổ
Ngút ngát xanh! Ngút ngát ruộng đồng
Chẳng nỡ rời! Muôn dân trăm họ
Đứng dầm chân đón gió biển Đông.
Lần đầu tiên nơi này, tôi đến
Gió lộng biển xa! Bủa bủa vây
Chợt run người! Lòng như tê dại
Âm âm tiếng ai vọng đâu đây.
Bến sông này bao người li biệt?
Vùi thân thăm thẳm biển khơi xa
Bến lạ tha hương ai cập bến
Hoàng hôn buông! Lòng xót! Lệ nhòa…
Nơi cửa sông trước khi ra biển
Nước còn vương vấn mãi không nguôi
Cuộc li biệt lặng thầm. Ai biết?
Nghe vọng âm có phải riêng tôi?
Biển khơi xa! Chân mây biền biệt
Có nghe chăng di nguyện thắt lòng
“Nếu – tôi – chết – mang – tôi – ra – biển!”(•)
Bến nước này, ai đón đợi không?
Giữa trưa hè, trời cao nắng xối
Nước bủa vây, tôi nhỏ quá chừng
Bâng khuâng cúi đầu soi vào nước
Lặng thầm xin góp giọt lệ trong.
—-
(•) Thơ Du Tử Lê
***
GHI Ở NGHĨA TRANG QUẢNG TRỊ
Đến Nghĩa trang Thành Cổ Quảng Trị, tôi sợ hai màu: màu xanh rờn rợn của Cỏ và màu đỏ cũng rờn rợn của Hoa Phượng. Trong nắng hè gay gắt bước vào đây vẫn thấy lành lạnh.
Nhân thi huynh Nguyễn Đức Tùng về thăm Cố hương xin được tặng Anh.
Nắng hè, gay gắt đổ,
Ràn rạt thổi, gió Lào,
Nghĩa trang thành cổ,
Hai khẩu thần công lặng ngắt,
Một đoạn thành lở loét, dấu tích chiến tranh,
Còn tất cả, hầu như đều mới.
Những ngôi mộ, thẳng hàng,
Những khóm hoa, thẳng hàng,
Những hàng cây, thẳng lối,
Tượng đài đang được trùng tu.
Chúng tôi lặng lẽ thắp hương trên từng ngôi mộ,
Đã cố gắng mua thật nhiều hương nhưng không thể đủ,
Bạt ngàn,
Bạt ngàn,
Bạt ngàn,
Rất nhiều mộ không có tên,
Mọi người chụp ảnh làm kỉ niệm,
Tôi lặng lẽ nhìn,
Màu hoa phượng nơi đây đỏ bất thường,
Còn hơn màu máu đỏ.
Cỏ nơi đây xanh bất thường,
Xanh rờn rợn, rờn rợn xanh ma mị
Tôi cúi xuống nhìn hình như trong mỗi lá cỏ mảnh mai,
Thoáng như có từng tia máu.
Tôi ngước nhìn trời,
Xanh ngăn ngắt, xanh rờn rợn, xanh thăm thẳm,
Kìa lá phượng cũng hằn lên từng tia máu.
Đất dưới chân tôi cứ như đang chuyển động,
Rùng rùng đạn bom,
Rùng rùng từng đoàn xe bánh xích,
Nghiến ken két dưới chân tôi.
Bỗng thấy trời tối đen, lồng lộn từng cơn mưa máu,
Máu không đỏ mà đen ngòm trút xuống,
Loe lóe xanh lè lửa ma trơi.
Mưa bỗng ngưng
Tôi thấy dưới chân mình toàn cát,
Cát mênh mông bỏng rát,
Không một dấu chân người.
Thoang thoáng đâu đây lời ai oán,
“…Thanh Hải đầu….quân bất kiến,
Cổ lai bạch cốt vô nhân thâu…”
Xương trắng bạt ngàn, bạt ngàn xương trắng.
Chiến tranh bao người đi vĩnh viễn không về!
Vẫn xanh trời Quảng Trị,
Vẫn xám ngắt hoa lau Quảng Trị,
Mây trắng bay về đâu?
Đặng Tiến (Thái Nguyên)