Hoàng Đình Tạo: Kurdistan

Theo Viện Nghiên Cứu Kurdish Paris, thì tổng số người Kurd chừng 34,5 triệu. (RFI: 60 triệu). Được trải ra vùng Kurdishtan ở giữa biên giới 4 quốc gia: Đông Nam Thổ Nhĩ K , Tây Bắc Iran, Bắc Iraq và Bắc Syria.

Ngôn ngữ gồm Kurdish, Arabic, Persia,Turkish.

Vùng Kurdishtan (vùng đất của người Kurd) ở Thổ Nhĩ Kỳ chiếm khoảng 190,000 km2. Chừng 14,7 triệu người Kurd sống ở đó.

Vùng Kurdishtan ở Iran chiếm khoảng 125,000 km2. Chừng 8,1 triệu người Kurd sống ở đó.

Vùng Kurdishtan ở Iraq, chừng 5,5 triệu người Kurd sống trong vùng 5,5 ngàn km2.

Vùng Kurdishtan ở Syria, có khoảng 12,000 km2, cho 1,7 triệu người Kurd.

Đường vẽ khu vực Kurdistan cũng bị chính trị hoá, thường được phóng đại.

Và các nhà hoạt động người Kurd cũng chia làm hai khuynh hướng: 

1/ Thành lập một quốc gia Kurdishtan, tập trung người Kurd ở vùng biên giới 4 quốc gia lân bang.

2/ Chỉ đòi hỏi tranh đấu cho quyền tự trị trong quốc gia sở tại. Đường lối này hầu như đang được giới hoạt động của người Kurd nhắm tới. Khi nào lực lượng đủ mạnh và quốc tế công nhận thì thiết lập quốc gia. (Chúng ta sẽ bàn ở dưới).

Ngoài ra, người Kurd còn sống ở Hoa Kỳ, Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Hy Lạp, Anh Quốc. Âu châu khoảng 1,5 triệu đến 1,7 triệu người Kurd.

Theo lịch sử thì chữ Kurdishtan có từ thế kỷ 11, nhiều đế chế quân vương đã được thành lập từ thế kỷ thứ 8 – 19. Nhưng sang thế kỷ 20 thì bị chết yểu.     

Như vương quốc Kurdishtan (1918 – 1919). Red Kurdishtan (1923 – 1929). Cộng Hòa Ararat (1927 – 1930). Cộng Hòa Mahabat (1946).

I.  NGƯỜI KURD TẠI THỔ NHĨ KỲ

Sau thế chiến thứ hai, chừng 5 triệu người Kurd nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, số còn lại 4 triệu nói tiếng bắc Thổ Nhĩ Kỳ. Khoảng 1991, thì ít người Kurd còn sống ở vùng nông thôn để nói tiếng mẹ đẻ.

Từ 1915 – 1918 người Kurd cũng tham gia tranh đấu chống Ottoman cai trị. Do đó, Tổng Thống W. Wilson hỗ trợ thành lập một quốc gia độc lập cho người Kurd, theo Hội Nghị Hoà Bình Paris 1919. Đến Hoà Ước Sèvres (Bỉ), cũng đặt nền tảng quốc gia cho Kurdishtan. Nhưng đau đớn thay, các cường quốc nể lời Mustafa Kemal của Thổ Nhĩ Kỳ là không muốn thành lập quốc gia Kurdishtan. Nên trong hội nghị Lausane (Bỉ), tất cả tài liệu đều bị xếp lại và không đề cập một tiếng nào Kurdistan trong hội nghị.

Đến năm 1925, người Kurd nổi loạn, Mustafa Kemal mới thành lập Hội Đồng Cải Cách Miền Đông, đặt ra ba chức vụ Tổng Kiểm Tra cho ba tỉnh. Còn miền Tây vẫn cai trị thiết quân luật cho đến 1952 mới bãi bỏ.

Từ 1950, chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ cởi mở, và người Kurd cũng chiếm được một số vị trí chánh trị và hội nhập vào xã hội. Nhưng năm 1960 có cuộc đảo chánh, nên các chương trình hội nhập bị đình chỉ.

Với sự biến thể của nhiều quốc gia chuyển sang chế độ cộng sản. Và giới trẻ bất mãn vì thấy chế độ phong kiến và bộ tộc quá nhiều khiếm khuyết, nên trở thành đối kháng với chính quyền, và gia nhập đảng tả khuynh PKK (Partiya Karkeren Kurdishtan,  Kurdistan Workers’ Party.

Và dân quân người Kurd đã võ trang chống lại chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ để thiết lập tự trị về văn hóa, chính trị và kinh tế cho người Kurd. Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ, EU, NATO đã xếp PKK vào các tổ chức khủng bố.

Từ 1984 – 1999 PKK và chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ đã dấn thân vào cuộc chiến mở rộng. Hầu hết những vùng nông thôn nhà cửa bị bỏ hoang, bây giờ nhờ vậy, người Kurd dùng làm phòng thủ. Người dân khốn khổ. PKK không thể kiểm soát được. Trong khi đó, Thổ Nhĩ Kỳ bắt buộc phải phá nhà cửa, làng mạc. Khoảng 3 ngàn làng bị xoá sổ. 400 ngàn người Kurd phải bỏ nhà cửa ruộng vườn đi lánh nạn.

Chính vì vậy, Nelson Mandela đã từ chối nhận giải Attaturk của Thổ Nhĩ Kỳ năm 1992, vì vấn đề người Kurd. Mãi đến năm 1999 thì Mandela mới chấp nhận.

II. NGƯỜI KURD TẠI IRAQ 

Người Kurd chiếm 17% dân số Iraq. Họ chiếm đa số ít ra được 3 tỉnh ở phía Bắc Iraq. Khoảng 300 ngàn người Kurd sống ở thủ đô Baghdad, 50 ngàn ờ Mosul. Và chừng 100 ngàn ở nam Iraq.

Người Kurd ở Iraq, được sự lãnh đạo của Mustafa Barzani chống lại sự lãnh đạo của Iraq. Mãi đến năm 1970, Iraq mới chịu cho người Kurd quyền tự trị, với kế hoạch dự trù trong 4 năm.

Nhưng khi Iraq bắt đầu Ả Rập hoá và khai thác dầu mỏ ở Kirkuk và Khanaquin, chính quyền Iraq đã tấn công người Kurd.

Tháng 3/1975 Iraq và Iran ký hiệp ước Algiers, theo đó Iran ngưng cung cấp dầu cho người Kurd, và Iraq đã Ả Rập hoá khai thác dầu gần Kirkuk, giữa 1975 – 1978. Khoảng 200 ngàn người Kurd bị trục xuất sang các khu định cư khác.

Trong những năm 1980s, chính quyền Iraq đã có chính sách chống người Kurd. Và sau áp bức là chiến tranh bùng nổ giữa người Iraq và người Kurd. Iraq đã bị thế giới lên án, nhưng chỉ qua loa, chứ không lên án cụ thể những hành động giết người Kurd tập thể, dùng hơi ngạt, áp bức người sống, trục xuất người Kurd.

Năm 1988, một chiến dịch được gọi là “Anfal”, tấn công phá sạch 2000 làng mạc của người Kurd, 50 – 100 ngàn người chết.

Năm 1991 người Kurd nổi dậy, chính quyền Iraq cho chiếm các vùng đông dân cư, khiến hàng trăm ngàn người Kurd chạy đến vùng biên giới, ở đó Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc thiết lập vùng an toàn.

Năm 2003, người Kurd rất vui mừng khi quân đội Hoa Kỳ đưa quân vào, đến nỗi dân chúng ra đường nhảy múa. Người Kurd chiếm lại quyền kiểm soát Kirkuk và một phần Mosul. Và Hoa Kỳ cho thiết lập “no fly zone” để bảo vệ người Kurd.

Quân đội Iraq rút lui để lại khoảng trống và người Kurd liền lấp vào vị trí và kiểm soát vùng Kurdishtan. Sau khi liên quân đồng minh đổ vào, Iraq được thiết lập một nhà nước liên bang và công nhận Kurdishtan là một vùng của liên bang. Mặc dù tân hiến pháp không đề cập đến chữ “tự trị “, chỉ nhấn mạnh “tản quyền” và “ nhượng quyền”. Cho phép tổng đốc điều hành các công việc địa phương. Tuy nhiên, trong khi thực thi, thì người Kurd thi hành như tự trị.

2006, người Kurd đã sát nhập lại 2 vùng và trưng cầu dân ý năm 2007 để xác định biên giới Kurdishtan.

Đến 7/2014, lực lượng người Kurd kiểm soát được Kirkuk và Bai Hassan vùng mỏ dầu, Iraq giận dữ và đe dọa nếu không trả thì sẽ có hậu quả khôn lường.

Năm 25/9/2017 người Kurd mở trưng cầu dân ý, với 92,73% ủng hộ độc lập. Điều này đã làm Iraq nổi giận và chiếm lại Kirkuk. Và cuộc trưng cầu dân ý bị bãi bỏ.

Hậu quả còn nặng nề hơn nữa là Iraq muốn tập trung quyền hành, tước bỏ những gì đã có được cho tự trị. Người Kurd bị rơi vào tương lai vô định.

III. NGƯỜI KURD TẠI IRAN

Sự liên hệ giữa Iran và người Kurd bắt nguồn từ lịch sử, văn hóa, chính trị lâu dài từ thời cổ đại. Gần như Kurdishtan nằm trong Đế Quốc Ba Tư, và một phần nào đó vào Đế Quốc Ottoman.

Từ thế kỷ 10 – 12, hai vương triều Kurdish trị vì vùng này. Ardalan trị vì từ đầu thế kỷ 14 cho đến thế kỷ 19. Đến Quận Chúa Nasser-al-Din Shah năm 1867.

Hiện nay, người Kurd đã hội nhập vào dòng chính của Iran, giữ nhiều chức vụ cao cấp trong quân đội. Có chân trong nội các chính phủ. Chiếm 30/290 ghế quốc hội. Như Thị Trưởng thủ đô Tehran, phó tổng thống Mohammad Resa Rahimi, ứng cử viên tổng thống về nhì Mohammad Baghar Ghalibaf.

Khi Đế Quốc Ottoman sụp đổ, tại hội nghị Paris 1919, Iran đã đòi thêm những vùng đất Kurdishtan ở Syria, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ; nhưng những đòi hỏi này đã bị hội nghị bác bỏ ngay từ đầu. Năm 1850, người Kurd chiếm 8% dân số Iran, tức là khoảng 800 ngàn so với 7 triệu dân Iran. Đến năm 1956, người Kurd chiếm 10,6%, tức khoảng 2 triệu dân.

Không giống như người Kurd ở ba quốc gia kia, người Kurd ở Iran đã có lịch sử gắn bó lâu đời. Vài đế chế cận đại như Safavids Zands được coi như là có nguồn gốc Kurdish. Văn chương Kurdish đã phát triển trong lịch sử ngôn ngữ Persian (Ba Tư) và đã ảnh hưởng đến rất nhiều. Chính vì vậy, người Iran gốc Kurd không muốn tự trị hay đòi độc lập nhà nước Kurdishtan.

Thêm vào đó, Iran luôn phản đối bất cứ một dấu hiệu nào đòi độc lập cho người Iran gốc Kurd. Ngược lại, còn cho những người những người Kurd theo đạo Hồi Sunni (Sunni Kurds) làm đạo quân thứ 5 trong lòng Ottoman.

Khoảng 1910 – 1920, có cuộc nổi dậy của bộ tộc Simko Shikak lan rộng cả cộng đồng người Iran gốc Kurd (Iranian Kurdish). Mặc dù tư tưởng quốc gia được đưa ra, nhưng các nhà sử học cho rằng không thể định căn tính của họ. Cả chính quyền và người Kurd cũng đều bị họ cướp.

Khi có chiến tranh giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Iran, để tranh thủ nhân tâm, hai bên đều có những trại tỵ nạn cho người Kurd. Cũng như sau này, chiến tranh giữa Iraq và Iran, Iran đã là đất tạm dung cho 1,4 triệu người Kurd.

Trong thời gian này, tư tưởng Maxism cũng ảnh hưởng đến người Kurd qua trung gian Liên Xô. Năm 1946, Liên Xô muốn lập chính phủ bù nhìn gọi là Cộng Hoà Mahabad. Nhưng đã thất bại và rút lui 12/1946. Nhóm Marxists đã hoà nhập vào Iran khi hệ thống cộng sản tan vỡ năm 1991.

Nhưng có điểm ngược lại là vì đặc tính xuyên quốc gia nên rất dễ bị lực lượng ngoại bang giựt dây phá vỡ sự ổn định cho cộng đồng thăng tiến.

Như sau Cách Mạng Hồi Giáo 1979 ở Iran, người Kurd bị từ chối một số ghế 

“chuyên viên” trong cuộc tập họp soạn thảo hiến pháp mới. Làn sóng “ái quốc” nổi lên trong lòng người Kurd sau khi Pahlavi sụp đổ. Với hàng loạt cuộc nổi dậy toàn quốc. Trong năm này đã có sự đụng độ giữa quân đội Cách Mạng Hồi Giáo Iran và người Kurd.

12/1979, Khomeini cho biết: quan niệm chủng tộc thiểu số là đi ngược lại học thuyết Hồi Giáo, chống lại sự thống nhất của Hồi Giáo.

1997, Khatami cho phép người Kurd tham gia chính phủ, thống đốc và tăng số đại biểu quốc hội.

Nhưng bắt đầu 2008 trở đi, người Kurd bị kỳ thị nặng nề, nhất là dưới thời Khomeini. Theo Hội Ân Xá Quốc Tế cho rằng người Kurd bị áp bức về chánh trị, văn hóa, xã hội. Sang thế kỷ 21, nhiều nhà hoạt động người Kurd, nhà văn, giáo sư bị bắt và tử hình (Trong năm 2024 có 900 tù nhân bị tử hình. RFI.)

IV. NGƯỜI KURD TẠI SYRIA 

Sau hiệp ước Sykes-Picot, chính quyền Syria không bao giờ công nhận sự hiện hữu của người Kurd. Năm 1962, Syria đã tước quyền công dân 120 người Kurd, đã biến những người Kurd thành vô tổ quốc.

Năm 2004, nổi loạn chống chính quyền địa phương Qamishli. Trong một trận bóng tròn giữa đội Kurd và đội Ả Rập. Nhưng trong khán giả, có người ủng hộ đội Ả Rập đã dương hình Sadam Hussein – người đã giết cả chục ngàn người Kurd trong những năm 1980s. Người Kurd đã tấn công văn phòng Đảng Ba’ath địa phương, và cảnh sát đã bắn chết 30 người Kurd. Người Kurd chạy sang trại tỵ nạn ở Iraq. Khaznawi, người mà Syria cho là lãnh đạo cuộc nổi dậy, đã bị chính quyền Syria giết chết.  

“Mùa Xuân Ả Rập” 2011 lan đến Syria. Đây là tiếng vọng của Cách Mạng Tusinia. Một công dân Syria, tên Hasan Ali Aklek đã tẩm xăng và tự thiêu ở bắc thành phố Al-Hasakah. Đã làm cảm hứng cho “ngày phẫn nộ”, mà trước đây dân chúng vẫn sợ sự áp bức của chính quyền. Nhiều ngày sau đó, người dân biểu tình vì cảnh sát đã đánh đập một người giữ cửa tiệm.

Đến 7/3/2011, 13 tù nhân chính trị tuyệt thực và gởi “tối hậu thư” cho Assad. Ba ngày sau đó, mấy chục người Kurd cùng tuyệt thực để tỏ tình đoàn kết.

12/3/2011, biểu tình rầm rộ ở Qamishli và Al-Hasakah chống Assad và tưởng nhớ những người Kurd tử vì đạo.

Assad muốn làm dịu tình hình hứa sẽ cho thêm người Kurd quyền công dân. Đến hè, tình hình căng thẳng, chính quyền dùng bạo lực để triệt hạ biểu tình chống đối.

Người Kurd, người Assyria và người Ả Rập biểu tình phản đối chính phủ Syria tại Qamishli, ngày 6 tháng 1 năm 2012

Tháng 8, các nhóm đối kháng tập họp lại, thành lập “Hội Đồng Quốc Gia Syria”, nhắm tới xây dựng một chế độ dân chủ, đa nguyên, đa đảng, đa sắc thái để chuẩn bị thay thế chính quyền Assad. Nhưng bất đồng ngày càng trầm trọng cho hai bên, phong trào của người Kurd biến thành lực lượng võ trang.

Phong Trào Quốc gia của đảng Kurd (National Movement Of Kurdish Party) là liên kết 12 đảng phái của người Kurd. Họ đã tẩy chay một cuộc họp thượng đỉnh giữa chính quyền Syria và người Kurd ngày 30/5/2011 ở tại Istanbul, vì cho rằng Thổ Nhĩ Kỳ là người đàn áp người Kurd chứ không phải trung lập.

Đến tháng 8, có một hội nghị thượng đỉnh khác, cũng ở Istanbul để thành lập Syrian National Council, nhưng chỉ có 2 đảng người Kurd tham dự là Kurdish Union Party và Kurdish Freedom Party.

Sự xung đột lan rộng ra khi hai đảng đối lập người Kurd, là Kurdish Democratic Union Party (PYD) và Kurdish National Council (KNC) ký thông cáo chung 7 điểm ở Erbil, ngày 11/6/2012. Có cả chủ tịch Massoud Barzani, lãnh đạo người Kurd ở Iraq. Các bên đã lập ra Kurdish Supreme Committee là ban quản trị cho tất cả người Kurd ở Syria.

The People’s Protection Unit (YPG) cũng gia nhập thêm vào cuộc xung đột. 19/7/2012 chiếm được Kobani. Ngày 20/7/2012 chiếm được Amuda, Efrin. Quân đội Syria rút lui. Người Kurd lập ra uỷ ban lãnh đạo điều hành vùng đất vừa chiếm được.

Lực lượng tiếp tục tấn công, 21/7/2012 chiếm được Al-Malikiyah và Qamishli, Ra’s al-Ayn, Al-Darbasiyah. 24/7/2012 chiếm Al-Ma’bada.

A. CHÍNH QUYỀN ROJAVA ĐƯỢC THÀNH LẬP 

Ngày 2/8/2012 “National Coordination Comittee for Democratic Change” (Ủy Ban Điều Phối Quốc Gia Vì Sự Thay Đổi Dân Chủ” của người Kurd, tuyên bố hầu hết các thành phố ở Syria quân đội không còn kiểm soát được nữa, và được quản trị bởi các thành phần chính trị người Kurd.

Sau nhiều tháng kiểm soát bởi tình trạng thực tế, người Kurd chính thức tổ chức quyền tự trị vào ngày 1/9/2014.

Bầu cử được tổ chức và hiến pháp ROJAVA được thành hình. Sau đó người dân tổ chức hội đồng địa phương, mở lại trường học, trung tâm cộng đồng, dẹp tan “Nhà Nước Hồi Giáo và Trung Cận Đông” (ISIL). Và người Kurd kiểm soát phía đông sông Euphrates, và cảm thấy mầm sống đang nẩy chồi dân chủ trong toàn Syria.

CÁCH MẠNG XÃ HỘI 

Được lấy từ cảm hứng của tư tưởng Abdullah Ocalan, nhà lãnh đạo đảng Kurdistan Workers’ Party (PKK), một “xã hội tự do”. Nó đã thay đổi cơ cấu xã hội của người Kurd như: bình đẳng nam nữ, những cấm đoán của Assad bị loại bỏ, như: cấm tổ chức chính trị, tôn giáo, phụ nữ, tự do ngôn luận v. v… được thiết lập trở lại.

Abdullah Öcalan, hình chụp năm 1997.

Ocalan gọi đây là “dân chủ tập hợp” (Democratic confederalism). Hệ thống dân chủ tự tổ chức, với sự tập hợp đặt trên nền tảng tự trị, dân chủ trực tiếp, nữ quyền, đa văn hoá và hợp tác kinh tế. Chịu ảnh hưởng bởi môi trường xã hội, chủ nghĩa đô thị tự do, lịch sử Trung Đông và các lý thuyết về quốc gia.

Ban đầu, Ocalan cũng bị ảo tưởng của chủ nghĩa Marxism, sẽ tạo dựng một Kurdishtan “không quốc gia”. Tuy nhiên, trong thời gian ở tù, ông đã nghiền ngẫm sách và chịu ảnh hưởng của tây phương về tình trạng “vô chính phủ”. Ocalan mới hình thành mục tiêu chính trị mới cho phong trào giải phóng Kurdishtan. Loại bỏ những quan điểm xưa để thay vào đó một chương trình cấp tiến và thay đổi bằng “chủ nghĩa xã hội khai phóng”. Không mục đích xây dựng một quốc gia độc lập với Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng đặt nền móng cho tự trị, tản quyền, dân chủ trực tiếp trên nền tảng dân chủ tập hợp.

Ocalan bác bỏ chủ nghĩa độc tài, quan liêu và quốc gia xã hội, cũng như chủ nghĩa tư bản. Ông cho rằng bất bình đẳng kinh tế, bất bình đẳng giới tính, phá hoại môi trường là hệ quả của chúng. Và ông cho dân chủ tập hợp là loại tổ chức nhà nước “không nhà nước quản trị”, hay “nền dân chủ không nhà nước”. Nó sẽ là cái sườn tự trị cho tất cả các cộng đồng, giới tính, sắc tộc. Đó lả chủ nghĩa xã hội khai phóng.

Điểm đặc biệt nhất của Ocalan là giải phóng phụ nữ.

Ông cho chế độ gia trưởng là hệ tư tưởng đẻ ra quốc gia và quyền lực vả nó nguy hiểm như chủ nghĩa tư bản. Ông cho rằng cái nhìn mới sẽ tước đoạt định chế cũ và tâm lý quan hệ đặt ra từ chế độ tư bản và bảo đảm phụ nữ có mọi quyền bình bình đẳng như nam giới trong mọi việc quyết định của xã hội.

Dân chủ tập hợp được xuất hiện khoảng tháng 3/2005, nhưng liền sau đó, người Kurd ở Iraq, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Syria chấp nhận nhanh chóng.

“Dân Chủ Tập Hợp của Kurdishtan” không phải là một hệ thống nhà nước, nhưng là một hệ thống dân chủ cho một dân tộc không có bộ máy nhà nước. Với phụ nữ và trẻ em trước hết, và là một hệ thống mà các nhóm xã hội sẽ tự nó phát triển trong bộ máy dân chủ. Nó là một hành xử chính trị tự do và bình đẳng vì được tự do chọn người đại diện. Nó được đặt trên nguyên tắc khả năng và kinh nghiệm. Nó lấy ra quyền lực từ nhân dân trong mọi lãnh vực để tìm ra sự tự túc. Do đó, quan niệm mấu chốt là  “quyền tự quyết” đặt nền tảng cho dân chủ mà không cần phải tìm kiếm khái niệm mới.”

Ocalan đề nghị người Kurd không nên tìm kiếm một quốc gia Kurdishtan, nhưng hãy tạo dựng một hệ thống dân chủ tản quyền, tự tổ chức trong hình thái của tập hợp.

JINEOLOGY (NỮ QUYỀN)

Nổi tiếng nhất của Rojava và cũng của Ocalan là nữ quyền.

Jin: phụ nữ 

Jineology: Khoa học về giải phóng phụ nữ. Là phương pháp khoa học căn bản để trám khoảng trống mà khoa học xã hội không thể làm. 

Jineology xây dựng trên nguyên tắc là nếu phụ nữ không được tự do trong xã hội và không có một ý thức thực bao quanh thì không có xã hội nào được gọi là tự do cả.

Ocalan đưa tư tưởng này vào một xã hội đầy bạo lực và áp bức gia trưởng của Hồi Giáo thì quả thực đây là một tư tưởng cấp tiến. Nó bác bỏ hệ thống quốc gia để điều hành bởi dân chủ tập hợp của sự bền vững. Nó thách thức cho thái độ gia trưởng ở phương đông. Nó cũng ngược lại với nữ quyền phương tây dính liền với Chủ nghĩa tư bản và đình trệ.

Jineology cũng là lý thuyết tìm kiếm sự phục hồi của kiến thức về phụ nữ mà trước kia người ta vẫn nghĩ là “hạ đẳng” hay “sai sót”. Nó chỉnh đốn lại giá trị truyền thống mà phụ nữ đã bị chống trước kia về sự hiện hữu của mình.

Kết quả là trong lực lượng chiến đấu người Kurd có đến 40% nữ cầm súng.

Bên cạnh đó, “Khế Ước Xã Hội Của Các Vùng Tự Trị” được ban hành năm 2014. Qui định nam nữ bình đẳng trong gia đình và xã hội. Khích lệ sự lãnh đạo của phụ nữ. Phụ nữ có 40% số đại diện trong các cơ quan hay định chế. Phụ nữ là phó hay đồng chủ tịch. Ngay trong chức vụ chỉ huy quân đội cũng có mặt phụ nữ.

Cấm tảo hôn, cấm đa thê, cấm giết con vì danh dự, cam bạo lực trong gia đình.

Bình đẳng phái tính có lẽ là làm truyền thông thế giới để ý nhiều nhất. Có nhiều phụ nữ cầm súng phục vụ trong quân đội trong đơn vị phụ nữ ở tiền tuyến, chiến đấu để giải phóng Kurdishtan. Tư tưởng bình đẳng phải kể đến khía cạnh tích cực của sự giải phóng trong quân đội. Trong quân đội, không thể ngờ những vị trí chỉ huy có ưu thế là phụ nữ. Lực lượng People’s Protection Unit (YPG) là đơn vị toàn nữ.

Một chiến binh YPJ, tháng 11 năm 2014

HỢP TÁC KINH TẾ 

Tình trạng kinh tế của Rojava xây dựng hỗn hợp công ty tư nhân với sự quản lý tự trị của các công nhân để đi đến sự tự túc.

Tuy nhiên sự chuyển mình này đối phó với nhiều trở ngại lớn là cấm vận từ những quốc gia lân bang Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều lực lượng kiểm soát trong Syria. Do đó, đã áp lực dân chúng phải tùy thuộc vào một thứ khó khăn là xăng dầu để chạy máy điện.

Thoạt đầu, không có thuế gián tiếp hay trực tiếp trên kinh doanh, thay vào đó là nhà nước sẽ hỗ trợ qua lợi tức bán dầu và khoáng sản cùng thuế biên giới.

Tuy nhiên, tháng 7/2017, chính quyền vùng Jazira, bắt đầu thu thuế lợi tức để trang trải các dịch vụ công cộng trong vùng. Có sự hợp tác giữa các tư nhân kinh doanh và chính quyền. Chính quyền cũng hỗ trợ cho trường học và giá bánh mì rẻ hơn giá chính thức.

“Phong trào cho một xã hội dân chủ” đã hướng dẫn các nhà kinh doanh và công nhân tiến đến một “nền kinh tế cộng đồng, tự túc”.

Thêm vào đó, vài ngành nông nghiệp, với nhiều gia đình hợp tác cùng khai khẩn đất, chăn nuôi.

Theo uỷ ban kinh tế thì năm 2015, có đến 3/4 nhà ở được đặt dưới sự sở hữu của cộng đồng và 3/4 hàng sản xuất được chuyển thẳng đến hội đồng công nhân.

Các thành viên YPJ trong một trang trại nhà kính (a greenhouse farm)

DÂN CHỦ TRỰC TIẾP 

Khu vực Rojava được kết hợp giữa quận và hội đồng dân sự. Hội đồng quận gồm 300 thành viên và 2 chủ tịch- một nam, một nữ. Hội đồng quận quyết định và đưa ra việc quản trị cùng hội đồng kinh tế những trách vụ như thu rác, phân phối đất đai, hợp tác các xí nghiệp… Hội đồng dân sự lo về xã hội và quyền chính trị trong cộng đồng.

SẮC TỘC

Đi đôi với việc bảo vệ các nhóm thiểu số là bảo vệ tự do tôn giáo cho các nhóm này. Kurd có thể học Kurd một cách tự do cũng như tiếng Assyria. Và chương trình dạy tiếng Kurd (Kurdish) lần đầu tiên được đưa chính thức vào nhà trường.

Dân chúng được bày tỏ tự do nền văn hóa của mình. Các trung tâm nhạc, vũ cũng được mở ra. Có một số vùng được thêm người khác phái trong hội đồng và cũng có hội đồng sắc tộc.

Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp kỳ thị xảy ra cho người Syria như trưng thu nhà cửa những người chạy trốn chiến tranh, hay đóng trường học vì “học phí quá cao”, hay tấn công người Syria.

TÁI LẬP CÔNG LÝ 

Toà án Rojava được tái lập, với uỷ ban hoà giải thay thế cho hệ thống toà án Syria, và ở đó cũng có ban sắc tộc làm việc ở toà.

B. TỔ CHỨC VÀ ĐIỀU HÀNH MOJAVA

Uỷ ban điều hành Mojava lấy tên: General Council Of the Self Administration in Northern and Eastern Syria. Đến 2016 đổi lại: “Democratic Federation of Northern Syria”. Chiếm 18,3 ngàn km2, 1/3 lãnh thổ Syria.

Dân số 4,6 triệu; 11 ngàn binh sĩ bị chết, 21 ngàn bị thương, 74 ngàn người tỵ nạn. Đơn vị chiến binh nữ có đến 25 ngàn tay súng.

GDP là 900 tỷ, 55% GDP của Syria.

Rojava là một nước dân chủ rất đáng kinh ngạc. Không lãnh đạo, không hệ thống chính quyền. Một quốc gia không nhà nước. Sống rất gần thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Dự trữ nước để tưới, và vét sông dẫn nước. Sống bằng nghề nông nghiệp và chăn nuôi theo truyền thống.

Được chia thành 3 Tổng/Quận: Afrin, Kobani và Cizîrê 

  1. AFRIN CANTON

Tổng này có 50 nhà máy làm xà bông, 20 nhà máy làm dầu olive, 250 nhà kho để chế biến. 70 nhà máy chế tạo vật liệu xây dựng. 400 tiệm vải, 8 nhà máy làm giày, 5 nhà máy chế biến plastic, và 15 nhà máy chế biến đá cẩm thạch. Có một nhà kho 85 ngàn m2 là nơi đặt 800 cơ sở sản xuất.

Trước chiến tranh chỉ 450 ngàn dân, hiện nay là 1 triệu.

Xà bông Aleppo ở Afrin District

2. KOBANI CANTON 

Tổng Kobani có 450 làng. 70% dân số sống về nghề nông (chừng 60 ngàn người). Không dùng hệ thống tưới máy, chỉ nhờ mưa và nước sông. Có 250 ha trồng rau và trái cây (200 ngàn tấn/năm). Dầu olive 72 ngàn lít/năm. Thời chiến tranh thì ISIS phá hủy tất cả. Gia súc: 2700 bò sữa, 34 ngàn con cừu, 37 ngàn con gà, nay chỉ còn 50%. Máy kéo, máy gặt chỉ còn 1/3. 80%-90% dân chúng bỏ đi. 200 ngàn chạy sang Thổ Nhĩ Kỳ, còn lại chừng 25 ngàn.

Kobani có vấn đề lớn là điện và nước uống. Nhưng từ khi có uỷ ban tự trị đã cho xây đập và giải quyết được vấn đề nước sạch.

3. CIZIRE CANTON/JAZIRA CANTON

Là thủ đô của Rojava. Nắm quyền về quân đội và ngoại giao. 

Là vùng đất phì nhiêu màu mỡ, nuôi sống cả Syria. Trồng lúa mì, nho, bông vải, trái cây.

Sắc tộc phức tạp: 80% người Kurd, 20% Ả Rập, người Assyria, người Armenia, người Chechens. Vì vậy trong cộng đồng người Kurd có 2 quan điểm:

— Hãy để cho người Ả Rập và các sắc tộc khác hội nhập và xây dựng Rojava.

— Con cháu người Ả Rập phải ra khỏi nơi này.

Nền kinh tế chính yếu ở đây là sản xuất dầu. 90 ngàn thùng/ngày. Nhưng vì bị các quốc gia lân bang cấm vận và kỹ thuật kém nên chỉ dùng chừng 20%.

Theo Ocalan, có 3 làn sóng kinh tế:

 — Tân tự do 

— Cộng sản 

Hai làn sóng này đã thất bại và sụp đổ.

— Dân chủ xã hội: bắt buộc thoả hiệp giữa tư bản và công nhân, nhưng không hiệu quả. Các phức hợp công nghiệp không giải quyết nhu cầu cho công nhân, không xây dựng nền kinh tế nhân dân.

Kinh tế trong canton phải được hướng dẫn để cung cấp phúc lợi cho người dân và hỗ trợ khoa học kỹ thuật. Thoả mãn nhu cầu hàng ngày cho người dân sống xứng đáng. Cấm độc quyền sản xuất. Quyền lao động và phát triển bền vững được bảo đảm.

Một nền kinh tế phải nhắm tới thành quả phúc lợi cho xã hội; nếu không đạt được mục đích này, thì không còn là kinh tế nữa, mà là bộ máy ăn cắp tài chánh, tri thức và văn hóa.

Thị trường là chính yếu của nền kinh tế, nhưng sử dụng giá trị thì vĩ đại hơn trao đổi giá trị. Do đó, Rojava không có thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng. Và cũng không có sách lược dài hạn cho kinh tế.

Rojava có 3 nền kinh tế song song: nền kinh tế cộng đồng, nền kinh tế chiến tranh, và nền kinh tế mở cho các ngành.

Lợi nhuận được chia: 30% cho kế hoạch tương lai, 50% chia cho công nhân dùng theo nhu cầu, 20% dành cho các phúc lợi cộng đồng như nhà thương, trường học, cầu đường, điện nước…. Nhưng trong lúc này, 20% cung cấp cho nhu cầu tối thiểu cho người dân, và 70% dành cho việc tài trợ quân sự. Hiện nay võ khí của người Kurd chỉ loại cá nhân, nhẹ; thiếu võ khí cộng đồng và hạng nặng.

V.  TỔNG KẾT 

Theo Tiến sĩ Jadaliyya, có 3 yếu tố mà Rojava được cấu tạo và thành hình.

  1. Yếu tố lịch sử:

Người Kurd đã phải chống trả khu vực sinh tồn với người Ả Rập, khi Assad có chính sách Ả Rập hoá các vùng Kurdishtan ở Syria. Sau đó, người Kurd bị tước quyền công dân, tình trạng “vô tổ quốc “ đã làm người Kurd cảm thấy bơ vơ về tinh thần. Người Kurd đã mất quyền sống trên đất của mình từ hơn ngàn năm trước.

Các phong trào của Kurdishtan phải đề kháng những đe dọa từ trong nội bộ và ngoại bang.

  1. Yếu tố tư tưởng:

Từ khi Liên Xô sụp đổ, giai cấp chống giai cấp đa thất bại, và nhiều quốc gia Đông Âu đã chọn chế độ dân chủ tự do; Öcalan đã chuyển hệ tư tưởng của Kurdistan Workers’ Party từ Maxism sang tư tưởng Dân Chủ Tập Hợp. Và một số chánh đảng của Kurdishtan cũng vậy, như Free Life Party, Democratic Union Party.

Bên cạnh đó là giải phóng phụ nữ, bảo vệ môi trường, và chung sống trong hoà bình với những sự khác biệt.

Các học giả phương Tây có khuynh hướng làm giảm yếu tố tư tưởng của Ocalan một cách phiến diện, cũng như ông chịu ảnh hưởng Murray Bookchin về môi trường và chủ nghĩa cộng đoàn.

  1. Yếu tố địa chính trị:

Chính quyền Syria muốn người Kurd đỡ đầu cho người Hồi giáo (Islamist) được hỗ trợ bởi Thổ Nhĩ Kỳ. Đến Hoa Kỳ rút lui sau khi giải pháp hoà bình thất bại. Nga lại liền nhảy vào để cứu quá khứ có mặt vùng này. Rồi đến Hoa Kỳ tiếp tục hỗ trợ Thổ Nhĩ Kỳ mà nó có thể làm người Kurd tê liệt. Rồi Nga lại nhảy vào.

Do đó, đối đầu là sự khả dĩ chứ không phải yếu tố. Và kinh nghiệm lịch sử của sự đề kháng để đi đến chế ngự, thì nếu không có yếu tố địa chính trị chắc chắn sẽ không mở ra cho Kurdishtan một cuộc cách mạng.

Chiếm được Kobani, Kurdishtan đã không những đánh bại ISIS mà cả vài nhóm thánh chiến được Thổ Nhĩ Kỳ ủng hộ. Cuộc chiến thắng to lớn và vang dội cả thế giới ngưỡng mộ, do binh đoàn nữ chiến đấu”.

Tuy nhiên cũng có vài học giả phương tây còn theo vết mòn cổ xưa về kinh tế chính trị học, như: Opism chỉ là xã hội chủ nghĩa nông nghiệp, vì cũng trưng dụng 2/3 cơ sở tư nhân. Hay như là một sự phản ứng ngược lại của chế độ toàn trị Assad. Hay không thể nào có các nhà đầu tư trên thế giới bỏ tiền vô vì không nhà băng. Ngược lại là phải một mình tự lực cánh sinh.

Rojava phải có một nền kinh tế đa dạng hơn, chứ không thể chia mãi tiền lời cho dân chúng. Lòng quảng đại thì tốt, nhưng không có chỗ đứng trong lòng tham của kẻ thù. Cô lập là chết. Nên mở rộng cách mạng sang Iraq và cả nước Syria thì mới bảo đảm trường tồn lâu dài.

Nhưng dù gì đi nữa, Öcalanism đã là chủ thuyết – mà các nhà chính trị học cho là 

“không tưởng” và “vô chính phủ” – thành công nhất so trong lịch sử chính trị từ R. Owen, đến Fourier, Proudhon, St. Simon…Với số diện tích, thời gian, dân số và chiến tranh mà Kurdishtan đang điều hành và đối phó đã chứng minh điều đó. Rojava được hình thành từ năm 2012, đến nay được 13 năm. Ocalan vẫn cho mình theo chủ nghĩa “xã hội khai phóng” (liberation socialism) và “dân chủ tập hợp” (Democratic confederalism).

Theo RFI, ngày 22/4/2024, Tổng thống Erdogan đã đến thăm Erbin, thủ phủ Kurdishtan ở Iraq, trong vòng 3 giờ.

29/12/2024, Öcalan tuyên bố với các dân biểu, đảng có thiện cảm với ông rằng: “Củng cố tình huynh đệ Thổ Nhĩ Kỳ và Kurdishtan không chỉ là trách nhiệm lịch sử mà là mục tiêu khẩn cấp đối với các bên”.

Và Ocalan được phát biểu trước quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ, và tuyên bố giải tán hoạt động khủng bố, mà chính ông đã thúc đẩy đàm phán từ năm 1980.

Ngày 16/2/2025, phái đoàn Thổ Nhĩ Kỳ, trong đó có các dân biểu của đảng thân Kurdish, đã chuyển thư của Ocalan cho lãnh tụ của Kurdishtan ở Iraq, là Masoud Barzani. Hai bên gặp nhau tại Erbin.

Những tin tức đáng vui của RFI cho ta thấy một trang sử mới sắp mở ra trong vùng. Öcalan từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, thì cũng phải từ bỏ bạo lực đấu tranh. Và hy vọng ông sẽ được phóng thích vì đã ở tù hơn 1/4 thế kỷ, cũng như kết quả tốt đẹp của Rojạva cũng chứng minh không phải khủng bố nữa.

Rojava “nơi mặt trời lặn”. Rojava còn xa mới hoàn hảo, nhưng sự bất toàn cũng chính là sự hướng dẫn phát triển lối đi không tưởng qua cảm hứng dân chủ cấp tiến toàn cầu hóa.

“JIN – JIYAN – AZDI”  (WOMEN – LIFE – FREEDOM)

Hoàng Đình Tạo 

—————–

Tham khảo:

  1. Turkish Kurdistan, Wikipedia
  2. Iranian Kurdistan, Wikipedia 
  3. Facts & Figures, Kurdistan Regional Government
  4. The Sèvres Centennial: Self-Determination and the Kurds, American Society of International Law 
  5. The Rise and Fall of Kurdish Power in Iraq, The Washington Institute for Near East Policy 
  6. The Kurdistan region of Iraq: assessing the economic and social impact of the Syrian conflict and ISIS, World Bank Group 
  7. Turkey: Conference on Lausanne Treaty calls for new beginning to address ‘century-long denial policies against Kurds’, MedyaNews
  8. Rojava conflict, wikipedia
  9. The Economy of Rojava, Mesopotamia Coop
  10. What’s wrong with the idea of a Kurdish state? Why are so many countries against that?, Quora

11. Growing Utopian Crack: Ten Years of the Rojava Revolution, Jadaliyya