Inrasara: Lặn sâu vào dân tộc, tự tin nhập cuộc về hướng mở

[Một biên bản về sáng tác Cham hiện đại]  

I. Sáng tác tiếng Việt:

I.1. Kết luận bộ Văn học Cham, Khái luận – văn tuyển (1994):

Cũng cần điểm qua một vài khuôn mặt văn nghệ trong cái mà chúng tôi tạm đặt cho cái tên là “Văn học Cham hiện đại”.

Vào đầu thế kỉ, Po Thien đã có hai tập thơ được truyền tụng. Nhưng có lẽ sáng tác nhiều hơn cả và tài hoa hơn cả vẫn là Mưdwơn Jiaw. Có thể ví Mưdwơn Jiaw như là một gạch nối giữa văn học cổ điển và hiện đại Cham. Sau Mưdwơn Jiaw, Jaya Mưyut Cam có một bài thơ dài “Su-on bhum Cam” (Nhớ quê Cham) theo thể thơ lục bát Việt Nam đăng trong Ước vọng I, đặc san của Trường Trung học Pô-Klong cũ, được nhiều người biết. Với cái ưu tư sâu lắng, nhà thơ thả tâm hồn bay đi thăm nhiều làng quê Cham, từ Phan Rang đến Phan Rí, từ Tuy Phong qua Ma Lâm, mỗi làng thôn với những cảnh quan và những nét đặt trưng riêng của nó.

Bên cạnh Jaya Mưyut Cam, Đàng Năng Quạ cũng có nhiều sáng tác nổi tiếng. Ngoài các ca khúc mang tính chất sinh hoạt tập thể, Đàng Năng Quạ đã sáng tác được bốn ca khúc trữ tình để đời: “Xa-ai Cam adei Bini” (Anh Cham em Bàni), “Bhum adei” (Quê em), “Palei dahlak” (Làng tôi), “Karei jalan” (Không cùng chung lối). Các tình khúc của Đàng Năng Quạ đều xoay quanh hai đề tài muôn thuở của con người: tình yêu lứa đôi và tình yêu quê hương. Bằng thứ ca từ chân thành và đơn giản, các ca khúc này đã đi sâu vào tâm hồn của nhiều lứa tuổi, nhiều tầng lớp quần chúng Cham. Thời gian đó, Châu Văn Kên cũng đã cho ra đời nhiều ca khúc có giá trị. Nhưng khác với người cùng thời, các ca khúc của ông chủ yếu đề cập đến thế thái nhân tình, vừa sâu sắc ở suy tư, vừa tế nhị ở nhận định.

Sau 1975, Tantu, với những sáng tác mang nhiều tính hiện thực xã hội được nhiều người biết đến, bên cạnh Inrasara với một tập thơ song ngữ Cham – Việt cũng là những khuôn mặt đáng ghi nhận. Riêng sáng tác bằng tiếng Việt, chúng ta phải kể đến hai tên tuổi: Huyền Hoa và Jalau. Qua những bài thơ được đăng trong các tập san Hồn quê Ninh Thuận, Panrang, Tuổi Ngọc (cũ) hay Đại Từ Bi (mới), Huyền Hoa và Jalau được xem như hai nghệ sĩ đi khai phá một vùng đất mới. Sau đó, Trầm Ngọc Lan, bằng tài năng sớm phát triển, cũng đã kịp có một tập thơ góp mặt: Xây sầu trong tim lở.

Đây là của khuôn mặt quen thuộc, các tên tuổi bị quy định trong không khí sinh hoạt văn học rời rạc của tỉnh lẻ, trong đó hai nội san PanrangƯớc vọng như hai mảnh đất nhỏ hẹp để họ gặp gỡ, trao đổi và thể hiện.

Sau khi đất nước thống nhất, khi hai tập san với sự ra đời thất thường này đình bản thì sinh hoạt văn học Cham cũng tắt ngấm. Một Amư Nhân với các khúc sôi nổi của anh cũng không làm nổi mùa xuân. Và mặc dù sinh hoạt ở tỉnh cũng như ở thành phố luôn luôn rộn rịp, nhưng gần hai trăm năm biến cố lịch sử đã đi qua, đối với người Việt, dân tộc Cham vẫn còn giữ “những khoảng cách còn lại”, nên mãi đến hôm nay vẫn chưa có một Huyền Hoa hay một Jalau mới xuất hiện. Có lẽ cuộc vật lộn với sinh hoạt thường nhật quá cam go nên họ không còn thời gian nào để mà mơ mộng và sáng tác. Cũng có thể không có môi trường thuận lợi cho tài năng văn học nảy nở và phát triển.

Hi vọng rằng, trong thời gian tới, một tạp chí văn hóa – văn học dành riêng cho dân tộc Cham sẽ ra đời. Hay ít ra, người Kinh sẽ có một cái nhìn rộng mở hơn, người Cham cũng sẽ bỏ bớt mặc cảm đi, để qua và bằng sáng tạo văn học, chúng ta sẽ tìm thấy nhau trong một mái nhà của cảm thông thật sự(1).

Gần thế kỉ qua, khi Cham đã hòa nhập vào cuộc sống chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nhu cầu sáng tạo và thưởng thức văn học nghệ thuật ở cấp độ cao vẫn còn tồn tại. Và để hội nhập, các cây viết Cham không thể không sử dụng tiếng phổ thông (tiếng Việt) để sáng tác. 

Dẫu sao để viết được bằng ngôn ngữ không là tiếng mẹ đẻ, các cây bút Cham đã phải tự vượt bao nhiêu ải dựng lên ở bề sâu tâm thức mình. Hai mươi năm sau đất nước thống nhất, mãi đến giữa thập niên chín mươi, khi hàng loạt tập thơ của Inrasara ra đời cùng với các giải thưởng văn chương, người cầm bút Cham mới bắt đầu đăng các sáng tác của mình. Sau đó Tagalau – tuyển tập sáng tác, sưu tầm, nghiên cứu Cham(2) tạo sân chơi riêng cho họ. Qua 21 kì Tagalau, vài khuôn mặt mới xuất hiện và khẳng định mình. Dù Tuyển tập chỉ được phát hành trong phạm vi nhỏ hẹp ở vài tỉnh có đồng bào Cham sinh sống, thực tế nó đã là một lực đấy mang tính quyết định. 

I.2. Thử điểm danh vài khuôn mặt.

Inrasara, sinh 1957

Tôi, 

đứa con của ngọn gió lang thang cánh đồng miền Trung nhỏ hẹp

đứa con của nắng lửa bốn mùa cát trắng hanh hao

đứa con của biển khơi trùng trùng bão thét

và của đôi mắt tháp Chàm mất ngủ xanh xao.

Mẹ nuôi tôi bằng bầu sữa ca dao buồn

cha nuôi tôi bằng cánh tay săn Glơng Anak

ông nuôi tôi bằng vầng trăng sương mù truyền thuyết

plây nuôi tôi bằng bóng diều, hồn dế, tiếng mõ trâu.

(Tháp nắng, 1996)

“Sức nghĩ của Inrasara dồi dào và mạnh mẽ, sâu sắc và hiện đại. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời. Sáng tác của Inrasara có thể che lấp được những định kiến hẹp hòi, hoặc những mĩ cảm cũ kĩ. Anh dám vượt mình với vẻ ngạo nghễ cần có, dám vượt qua những lực cản bên ngoài một cách đàng hoàng. Inrasara góp công không nhỏ vào công cuộc đổi mới văn học, đổi mới cách tư duy và lối viết”(3).

Trầm Ngọc Lan – 1955

In ronéo tập thơ đầu tay Xây sầu trong tim lở (1973) dưới bút danh Chế Thảo Lan ngay từ những năm Trung học Đệ Nhất cấp. Sau một phần tư thế kỉ ẩn mình, Trầm Ngọc Lan viết trở lại. Hiện anh là một trong vài cây bút chính của Tagalau. Giọng văn Trầm Ngọc Lan qua truyện ngắn “Chân dung đồng một vụ” (Tagalau 1) tưng tửng mà lôi cuốn, có vẻ bất cần mà đẫm tình. Chỉ bằng đôi ba nét phác tưởng sơ sài, các đoạn đối thoại ngắn, vài quan sát như lối nhìn trẻ thơ, anh đã vẽ được chân dung của một làng quê Cham vừa cũ vừa hiện đại, nửa như yên ắng nửa muốn làm sôi động giả tạo trong buổi giao thời nhưng cứ đặc chất Cham. Đây là lối tiếp cận hiện thực khá hiện đại.

Trà Vigia – 1957

Mười lăm tuổi đã có thơ đăng ở nội san Panrang. Thơ Trà Vigia giàu chất suy tưởng, nhiều thể nghiệm mới, luôn tìm tòi bứt phá. Ngôn ngữ thơ nhiều góc cạnh, tứ thơ chuyển bất ngờ, qua đó tiếng thơ của Trà vỡ vạc những ẩn khuất của tâm hồn con người Cham trong cuộc sống hiện đại.

Nổi trội ở Trà chính là truyện ngắn, bút kí văn học. Sáng tạo nghệ thuật yêu cầu sức tưởng tượng vượt trung bình. Mặt này, Trà Vigia có thừa. Giấc mơ tưởng tượng của Điềm trong “Dạ hội thần tiên” lạc vào một lễ hội, là chuyện ai cũng có thể nghĩ ra; nhưng điều đáng nói là các chi tiết anh dàn dựng, chúng nằm nơi lằn ranh giữa thực và mộng, lồng ghép, quấn quyện đến không biết đâu mà lần. Thế mà nó cứ thực, thực còn hơn cái hiện tiền xảy ra hàng ngày quanh ta.

Trần Wũ Khang – 1957

Đứa con hai dòng máu Cham – Việt. Viết báo một thời gian, sau đó lui về quê ẩn tích. Bắt đầu viết lại vào năm 2004. Có nhiều tiểu luận và thơ đăng ở Tienve, Talawas.

“Quà tặng của quỷ sứ” không dài mà từ “khủng bố” ba mươi hai lần lặp đi lặp lại. Ở đó, khủng bố nổ tan xác âm thanh đẹp nhất của thiên nhiên và thế giới con người. Nó bất kể, bất cần và bất chấp. Nó là trung tâm. Nó là nó, chỉ có nó và, không ai khác. Tuyệt đối. Nó muốn và nó được! Nó – với tư tưởng, chủ nghĩa và hành động khủng bố của nó. Rồi khi mọi thứ đã tanh bành, nó còn lại mỗi mình nó. Như nó muốn. 

Ngôn ngữ thơ Trần Wũ Khang thoải mái, nhịp điệu phóng túng, đề tài thơ động cập trực tiếp hiện thực hôm nay: Hộ khẩu và KT3, bán độ bóng đá, tường lửa internet… Cả vấn đề thời sự nóng nhất là nạn khủng bố đang tràn lan khắp mặt địa cầu.

Jalau Anưk – 1975

Là khuôn mặt mới mang hơi thở mới vào thơ tiếng Việt. Ngôn ngữ đời thường cùng cách thể hiện hiện đại phơi lộ tâm tình thế hệ Cham sinh sau 1975: khỏe khoắn, dân tộc mà “không thiếu thế giới”. Jalau Anưk trộn lẫn tiếng Cham, Việt, Anh trong một bài thơ ngắn đầy tính cảnh báo vừa xót đau vừa phẫn nộ về một thế hệ mới hứa hẹn nhiều tương lai nhưng cũng ẩn náu không ít nguy cơ về sự vong thân, tha hóa:

Ai như em – dán dính mình bằng quần Jean, áo pull, bầm môi như máu ứa? 

Ai như em – bập bẹ Cham, Kinh, nụ cười ngượng nghịu, dáng đi mùa dịch gia cầm – avian flu? 

Ai như em – ném vào nhân gian cái nhìn bạc bẽo, cơn đói tờ giấy bạc, giấc mơ nail-doer, hơi thở overseas?

(“Ng.”, Tagalau 6, 2006)

Trà Ma Hani – 1948

Cây viết nữ có bản thảo tập thơ cho thiếu nhi: Em, hoa xương rồng và nắng, Giải thưởng cuộc thi thơ 2001-2002 của NXB Kim Đồng. Bài thơ tiêu biểu:

GIÓ 

Gió về từ biển, gió nói với lá điều gì mà lá reo vui 

Lá reo vui từ chiếc này sang chiếc khác, tàn này qua tàn khác, hàng cây này nối hàng cây khác 

Gió chạy qua sông, nói với nước điều gì mà nước kiểng chân chồm qua bờ như muốn dòm xem trên ấy có gì lạ.

Gió nhảy xa, gió nhảy cao 

Gió nhào lộn trên đồi rủ lũ cát tung bay với gió

Gió trườn qua plây, gió trôi trên mái tranh vỗ về nỗi đơn chiếc tuổi già 

Gió xô biển làm rì rầm sóng.

Đôi khi gió cũng biết chập chững từng bước rất nhẹ, thật khẽ qua vòm tóc chúng bạn khiến nó vờn bay

Vờn bay cùng giấc mơ tuổi nhỏ.

Một tác giả nữ khác là Chế Mỹ Lan – 1975, đang sống tại Hoa Kì. Tập thơ Em và màu mây qua tháp gồm bốn mươi bài thơ sáng tác trong thời gian sống xa quê hương. Sau đó bật nổi lên là Kiều Maily với thi phẩm Giữa hai khoảng trống (2014) và Nàng, hoa của Cát (2017) được xem là hiện tượng mới của tiếng thơ DTTS Việt Nam. Kiều Maily phức hợp và đa tầng, đòi hỏi ở người đọc nhiều liên tưởng. 

Mương Cái xuôi về palei em

Mương Đực đổ qua làng anh

cả hai chảy tan vào biển

Tìm nhau

dòng nước phải ngược lên nguồn suối

Anh dám mang phần số loài cá hồi không? 

cùng em, ngược về nguồn cội

tìm nhau

Vượt ngàn dòng dữ hay lách trăm vách đá ngầm

ta cùng ngược

cho ngày mai con cháu ta băng băng biển lớn

vẫn còn nhớ về nguồi suối

tìm nhau…

(“Mương Đực – Mương Cái”, trong Giữa hai khoảng trống, 2014)

Đồng Chuông Tử – 1980, sau tập thơ đầu tay, Đồng Chuông Tử in tiếp tập thơ Mùi thơm của im lặng hai năm sau đó. Tác phẩm vào chung khảo Giải thưởng Thơ Bách Việt năm 2009 cùng Tuệ Nguyên – 1982. Đây là sự lạ, báo hiệu hành trình đầy may mắn cho sáng tác đương đại Cham. 

Tuệ Nguyên in chung photocopy hai tập thơ, rồi in riêng Khúc tấu rối bù, 2007 trước khi Những giấc mơ đa chiều được NXB Hội Nhà văn ấn hành. Nhằm tạo nên một không gian thơ xô lệch, bề bộn, bừa bộn, rối tung, loạn xà ngầu và hỗn độn đến không thể kiểm soát, nhà thơ này quyết: 

Tôi đi vào con đường không có bảng chỉ dẫn

mỗi lần lầm lạc tôi bắt đầu đánh dấu.

(Tuệ Nguyên, Những giấc mơ đa chiều, 2009)

Chưa hết! Hàng loạt khuôn mặt khác xuất hiện đều đặn qua mỗi số Tagalau: Bá Minh Trí (đoạt giải thơ Bút Mới lần thứ năm của báo Tuổi trẻ), Diễm Sơn, Sonputra, Tuấn Huy… dần định hình giọng thơ riêng, đã tạo nên diện mạo chung của văn chương hiện đại Cham khá độc đáo.

II. Sáng tác tiếng Cham 

II.1. Văn hóa một dân tộc tồn tại ở bản sắc, phát triển ở tiếp nhận và sáng tạo. Thế nào là bản sắc? Ta chỉ hiểu được bản sắc một cái gì đó khi đặt nó bên cạnh một/ những cái khác. Đâu là bản sắc văn hóa Cham? Ở phạm vi hẹp hơn, văn học chẳng hạn, đâu là bản sắc, cái khác biệt nổi bật của văn học Cham khả dĩ làm đa dạng thêm nền văn học Việt Nam?

Người Cham biết sử dụng chữ viết từ khá sớm. Văn học vừa là nhân vừa là quả của ngôn ngữ, tư duy Cham, cả tư duy bình dân lẫn tư duy bác học (tư duy phức hợp, tư duy trừu tượng, siêu hình, tư biện, suy lí…), biểu hiện ở bề nổi lẫn phần chìm trong mọi khía cạnh, lĩnh vực. Ngôn ngữ, chữ viết phát triển thúc đẩy văn học phát triển. Nên ở Cham, song hành với văn học dân gian: panwơc yaw tục ngữ, panwơc pađit ca dao, dalikal truyện cổ…, là nền văn học viết phong phú: văn bi kí, sử thi, trường ca, thơ thế sự, thơ triết lí, gia huấn ca… Nhưng di sản văn học ấy đã thất tán quá nhiều. Nỗ lực thu gom hầu dựng lại khuôn mặt của nó bởi các nhà nghiên cứu hơn thế kỉ qua chưa thấm vào đâu, so với đòi hỏi của nó.

Chính sự thất tán này đã gây không ít ngộ nhận, rằng văn học Cham không có gì cả, ngoài mươi truyện kể với vài ba thi phẩm chép tay thiếu đầu hụt đuôi. Chưa kể các ấn phẩm sưu tầm mấy chục năm trước hãy còn lác đác và manh mún, chỉ từ nửa sau thế kỉ XX trở đi, khi các văn bản văn chương Cham được sưu tầm, dịch thuật và công bố, văn học của dân tộc một thời ngự trị suốt dải đất miền Trung Việt Nam hiện nay mới từng bước đến với người đọc. 

II.2. Sáng tác văn chương Cham hôm nay

Cụm từ ‘văn chương Cham hôm nay’ được dùng để định danh các sáng tác của những người Cham viết văn làm thơ bằng tiếng Việt hay/ và tiếng Cham, không phân biệt biên giới địa lí. Ở đó, năm 1968, năm “Su-on bhum Cam”, bài thơ tiếng Cham in giấy đầu tiên xuất hiện.

Sáng tác cận đại.

Khi vương quốc Champa hòa vào đất nước Việt Nam thống nhất, dù bao biến động của thời cuộc, xáo động của xã hội, các cây bút Cham vẫn cứ sống và viết, làm thơ và hi vọng. 

Người Champa đã đến đất này 

đào mương trồng lúa, đốt rừng làm rẫy

yêu nhau, sinh con đẻ cái

làm thơ rồi ra đi

gởi Mĩ Sơn ở lại…

(Inrasara, Lễ Tẩy trần tháng Tư, 2002)

Hàng loạt thi phẩm giá trị ra đời đánh dấu một giai đoạn văn chương. Chúng như chòm nến cuối cùng gượng phụt sáng lần cuối cùng để sẵn sàng đi vào đêm tối vĩnh viễn. Các trường ca thế sự: Ariya Glơng Anak, Pauh Catwai (4 Pauh Catwai), Hatai Paran, Ar Bingu, Ariya Twơn Phauw, Ariya Kalin Thak Wa, Ariya Ơk Lipa, Ariya Kalin Nưsak Asaih, Ariya Ppo Parơng…, trường ca trữ tình, và bao nhiêu bài thơ ngắn liên tục xuất hiện ngoi ngóp giành đất sống dưới ánh mặt trời. Bao cuộc chia li, mấy chục thi sĩ dân  tộc đã mất, bao nhiêu ngàn trang thơ thất lạc, ai biết được?! Trong trận hoảng loạn ấy, vỏn vẹn vạn dân, chữ nghĩa chưa qua kĩ thuật in ấn, giấy mực cực hiếm, vậy mà Cham đã để lại bao nhiêu là thơ…

“Năm 1833, sau biến cố Lê Văn Khôi, con dân Cham trải qua trận càn lớn nhất của lịch sử dân tộc. Lớn nhất và là cuối cùng. Không còn con đường nào khác, phương tiện nào khác, họ chạy bộ. Tán loạn. Qua Xiêm, Cam-bốt, hoặc lên rừng lẩn vào đồng bào Churu, Kơho. Cho đến khi vua Thiệu Trị xuống chiếu kêu những thân phận khốn khổ này trở về làng mạc, ruộng rẫy, kiểm lại Cham chỉ còn trên dưới vạn người. 

Từ xó xỉnh rừng núi đi xuống, nhà cửa – không, gia sản – không, lèo tèo sót lại vài người thân với bà con lối xóm cũ hết đường chạy phải ở lại, Cham gần như không còn gì cả ngoài nỗi hốt hoảng, lòng ham sống cháy bỏng và niềm hi vọng mơ hồ.    

(Inrasara, Hàng mã kí ức, 2011)

Chòm nến thơ ca kia ngỡ đã tắt hẳn, nhưng không. Các thế hệ Cham đi tới vẫn cứ sống, làm việc, làm thơ… và làm nên phép lạ.

II.3. Sáng tác hiện đại

“Sau Mưdwơn Jiaw, Jaya Yut Cam – Nguyễn Văn Tỷ có một bài thơ dài 29 cặp lục bát: “Su-on bhum Cam” (Nhớ quê Cham) đăng trong Ước vọng I, nội san của Trường Trung học Pô-Klong cũ, được xem như khởi đầu cho sáng tác hiện đại(4)

Xin nhắc lại, đấy là năm 1968. Một cột mốc quan trọng. “Su-on bhum Cam”(5) bên cạnh là bài thơ xuất hiện dưới hình thức bản in giấy đầu tiên, nó còn là sáng tác bằng thể thơ lục bát Việt đầu tiên của tác giả Cham. Ngay từ đầu thế kỉ XX, có nhiều tác giả sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ được biết đến: Ariya Kei Oy, Po Thien, Mưdwơn Jiaw… Rồi những thập niên hậu bán thế kỉ, hàng loạt tác giả khác như Phú Bô (tác giả Ariya Rideh Apwei), Thiên Sanh Cảnh, Quảng Đại Hồng, Thiên Ve, Minh Trí… Nhưng tất cả sáng tác của các cây bút này chỉ được truyền khẩu hay lưu giữ qua bản chép tay, phổ biến trong phạm vi rất hẹp, hoặc chỉ được “nghe nói“. Như là tác phẩm văn học dân gian vậy.

Trong bài viết này, để đảm bảo tính khách quan khoa học, tôi chỉ đề cập đến tác giả có tác phẩm in và phát hành trong cộng đồng Cham, và phần nào – độc giả cả nước.

Về văn xuôi, cộng đồng Cham mới chỉ có Phutra Noroya. Điều đặc biệt ở đây là cây bút hãy còn vô danh này đã viết nguyên cuốn tiểu thuyết Muk Cơk Dhar Wa bằng tiếng mẹ đẻ dày non hai trăm trang, trong đó chương một đã được Tagalau 4 trân trọng giới thiệu đến bạn đọc. Một nỗ lực khó tưởng tượng ở thời buổi văn chương chữ nghĩa đang xuống cấp này!

Nhưng chắc chắn thành tựu lớn và phong phú hơn cả của văn học tiếng Cham hiện đại chính là sự phát triển không ngừng của thể loại thơ. Không kể các bài thơ in trong sách Ngữ văn Cham bậc Tiểu học do Ban Biên soạn sách chữ Cham biên soạn ba thập kỉ qua, gần năm mươi tác giả trên trăm ngàn dân đã kịp thời trình làng trong thời gian ngắn (chỉ kể bộ phận Cham đang sử dụng akhar thrah là chữ Cham truyền thống), một con số ngang bằng tác giả Cham viết bằng tiếng Việt, là sự lạ! Có người sáng tác thuần tiếng Cham như: Jaya Hamu Tanran, Phú Đạm, Đặng Tịnh, Cahya Mưlơng, Jaya Thuksiam … hoặc viết bằng cả hai thứ tiếng như: Quảng Đại Hồng, Inrasara, Trà Vigia… Ai dám bảo Cham hết tha thiết với sáng tác tiếng mẹ đẻ? Ở mọi nơi trên thế giới, Cham thuộc mọi lứa tuổi, thành phần ở bất kì hoàn cảnh nào, họ vẫn đọc thơ và làm thơ. Ngoài Inrasara sáng tác có tính chuyên nghiệp, còn lại hầu hết đều là những cây viết không chuyên đang sinh sống tại nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước hình chữ S: Ninh Thuận, Bình Thuận, thành phố Hồ Chí Minh, Tây Nguyên… và cả hải ngoại nữa. Họ làm nhiều nghề khác nhau: Giáo viên, bác sĩ, kĩ sư, doanh nhân, nông dân, sinh viên hay học sinh đang ngồi lớp tại vùng sâu vùng xa; tuổi đời cách nhau đến ba, bốn thế hệ. Từ tác giả tuổi quá cổ lai hi như Haji Amin, Cahya Mưlơng, Jaya Yut Cam cho đến thế hệ 8X là Kiều Biên Soạn, Thiên Sanh Huy Hoàng, Báo Thị Thu Trâm. 

Tagalau ra đời vào mùa Katê năm 2000 đánh một dấu mốc quyết định trong tiến trình văn học tiếng Cham hiện đại. Quyết định – bởi trước đó, người viết Cham hoàn toàn không có điều kiện đăng các sáng tác bằng tiếng mẹ của mình. Quảng Đại Hồng ở Caklaing viết bao nhiêu là thơ, nhưng chúng chỉ được dân làng thuộc và truyền khẩu, chứ chưa được xuất hiện dưới dạng ấn phẩm. Thiên Ve ở Thành Tín có cả trường ca về cuộc chiến vừa qua, để rồi chỉ được phổ biến cho mươi người bạn thân của anh. Ngay các sáng tác của Inrasara cũng chịu cảnh tương tự. Ba trường ca sáng tác làm bài đọc thêm cho bảy mươi học viên chữ Cham tại Caklaing vào mùa hè 1975 chỉ được biết đến trong phạm vi lớp học hè đó. Trong hai trăm bài thơ, mới có mười lăm bài hân hạnh đứng chung đầy khiêm tốn với thơ tiếng Việt trong tập thơ song ngữ Sinh nhật cây xương rồng (1997)!

Tagalau ra đời như là mảnh đất tươi tốt cho cỏ mọc.

70 bài thơ của 26 tác giả góp mặt suốt mười năm ở Tuyển tập là một sự kiện. Người đóng góp nhiều nhất là Jaya Hamu Tanran 17 bài. Tiếp đến là Phú Đạm 8 bài và Phutra Noroya 6 bài. Thơ Trà Ma Hani do Inrasara chuyển sang tiếng Cham 8 bài, riêng Inrasara 5 bài, Cahya Mưlơng 4 bài. Tác giả 2 bài, có: Báo Thị Thu Trâm, Sakaya, Jaya Thuksiam. Còn lại mỗi tác giả được đăng một bài là: Bơl Likơm, Đàng Thị Mộng Mơ, Đặng Tịnh, Haji Amin, Hlapah, Jajum Panrang, Kiều Biên Soạn, Minh Trí, Philô Đê, Thiên Sanh Huy Hoàng, Quảng Đại Cường, Racham, Rangauk, Riya Riya, Trà Vigia, Trượng Chóng. Cạnh đó, hơn hai mươi cây bút mới gởi thơ cho Tagalau đang chờ đăng nữa! 

Đặc biệt Ariya khik twei jalan adat (Thơ Giữ theo đường đạo) của Jaya Bal Riya dài 177 cặp lục bát Cham được in trang trọng ở phần cuối Tagalau 8, phần sân lâu nay chỉ dành riêng cho tác phẩm cổ điển Cham, là một ghi nhận trang trọng cống hiến của tác giả. Hỏi chứ nếu không có Tagalau, thì đâu là đất cho những cây non này mọc và đâm cành trổ lá? 

Cuối cùng, khi Văn học Cham hiện đại – Thơ ấn hành vào năm 2008, bao nhiêu thơ của tác giả tiếng Cham có phần nữa: Cahya Mưlơng 4 bài, Jaya Hamu Tanran (9), Minh Trí (3), Phú Đạm (8), Phutra Noroya (5), Trà Vigia (2), Inrasara (9). Riêng “Su-on bhum Cam” của Jaya Yut Cam tái xuất để đáp ứng nhu cầu của độc giả.

Ba năm trở lại đây, từ khi website Inrasara.com ra đời, ngoài nguyên tác tập thơ đoạt Giải thưởng hai năm 2001-2002 của NXB Kim Đồng: Em, hoa xương rồng & nắng của Trà Ma Hani được Inrasara chuyển sang tiếng Cham post lên, cùng lúc hơn năm mươi bài thơ tiếng Cham của Inrasara cũng lần lượt xuất hiện để phục vụ bà con yêu thơ tiếng mẹ đẻ. 

Vài năm qua, kĩ thuật in ấn thuận tiện với điều kiện kinh tế cho phép, các cây bút Cham cũng đã ý thức in thành tập các sáng tác lẻ của mình. Phú Đạm gạn đục khơi trong các bài thơ cũ làm ra Anưk kamei bhum pađiak (Người con gái xứ nắng). Tập thơ in photocopy năm mươi bản, phát hành vào đầu tháng 5-2009. Là một nỗ lực để làm cuộc song hành với thơ tiếng Việt của các cây bút Cham.

Trong lúc, với tiếng Cham đạt đến độ nhuần nhị hiếm có, Jaya Hamu Tanran hướng ưu tư về ngôn ngữ và chữ viết, về tương lai thế hệ trẻ, về đoàn kết dân tộc; thì ở Phutra Noroya là tình yêu gia đình, tình cảm quê hương có mặt thường trực, thể hiện qua lối viết khá truyền thống. Một tác giả khác: Jaya Bal Riya, bằng lục bát Cham cổ điển như tên gọi của nó, có bài thơ dài Ariya khik twei jalan Adat được viết rất chân phương theo cách của nhà mô phạm. Đó là loại thơ tiếp nhận hơi thở từ các gia huấn ca cổ điển Cham như Ariya Patauw Adat, Kabbon Muk Thruh Palei; chỉ khác ở ngôn từ thơ là của hôm nay.

Riêng Phú Đạm, bởi đây là tập thơ Cham hiện đại đầu tiên được ấn hành, nó cần được dành vài phân tích thích đáng. Tập thơ Anưk kamei bhum pađiak gồm 38 bài thơ ngắn, tập trung vào ba đề tài chính. Suy tư về thân phận và tâm tình riêng tây, bốn bài: “Than dahlak” (Thân tôi), “Than wak anưk mưtuy” (Thân phận đứa con mồ côi), “Cwak ngauk jalan mai” (Viết trên đường về), “Đwa karun” (Tạ ơn). 9 bài viết về anh chị em, cha mẹ và tình cảm gia đình: “Panoc amaik dauh ru” (Lời mẹ hát ru), “Panoc amư” (Lời cha), “Adei likei” (Em trai), “Harei cei mai” (Ngày cha về), “Rawơng tanum amaik” (Thăm mộ mẹ), “Mưta amaik” (Ánh mắt mẹ), “Panoc amaik” (Lời mẹ), “Adei kamei” (Em gái), “Kadha adei xa-ai” (Câu chuyện anh chị em). Còn lại thơ Phú Đạm nhấn vào đề tài văn hóa dân tộc, bộc lộ nỗi ưu tư về bản sắc văn hóa cùng nguy cơ biến chất của nó trong sinh hoạt đời thường của nhân dân lao động đang bị tác động mạnh bởi quá trình đô thị hóa. Tiêu biểu là những bài: “Nưm krung mưkal” (Dấu tích xưa), “Adei bac akhar” (Em học chữ), “Harei tagok bimong” (Ngày lên tháp), “Anưk kamei bhum pađiak” (Người con gái xứ nắng), “Bhap palei tamư Bai Gaur” (Bà con vào Sài Gòn)…

Bằng giọng thơ mượt mà, ngôn từ chắt lọc thiên về hiện đại, cuộc sống đời thường nông thôn Cham với bao khắc khoải đời người và người đời được nhà thơ thể hiện khá linh hoạt. Hình ảnh người mẹ, người cha, người em trở đi trở lại; tình bằng hữu, tình hàng xóm láng giềng có mặt xuyên suốt tạo không khí thơ đầm ấm, thân thuộc. 

Về nghệ thuật, các cây bút Cham tiếp nhận nhanh và thể hiện rất thoải mái tất cả các thể thơ mới họ bắt gặp. Họ vận dụng chúng ngay vào các sáng tác của mình, không chút ngại ngần. Từ Jaya Hamu Tanran cho đến Phú Đạm, từ Trà Vigia cho đến Cahya Mưlơng… Thơ lục bát Cham hay lục bát Việt, thơ năm chữ, bảy chữ, tám chữ thịnh hành thời Thơ Mới cho đến thơ tự do vần lẫn không vần, thơ theo cách nuốt âm tiết (chỉ tính trọng âm) hay thơ đếm âm tiết… thi sĩ Cham sử dụng thuần thục như thể chúng là của Cham từ đời nảo đời nao rồi. Và bao nhiêu giọng thơ đặc sắc khác nữa, đã lộ diện hay còn ẩn khuất trong bóng tối của thời cuộc…

Ariya Glơng Anak tin tưởng vào sự sống còn qua cơn sóng gió của định mệnh dân tộc. Pauh Catwai nhấn mạnh đến sức mạnh nội tại của nền văn hóa Champa”(6).

Sức mạnh nội tại ấy có mặt nơi tâm hồn con người Cham đầy chữ nghĩa thì hẳn rồi, nó còn tồn tại dai dẳng ngay trong trái tim của bao thân phận dường như “mất gốc”, “chối mình là Cham” nữa, mới lạ. Cao Xuân Hoang (Chân dung Cát), kẻ vô thần sa đọa “không có chữ K đeo vành tai”, vẫn nhiệt nồng thuyết về văn hóa dân tộc, sẵn sàng xả thân bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc(12). Vừa chua chát vừa buồn cười, nhưng sự thể bộc lộ trọn vẹn niềm kiêu hãnh đáng bái phục. Đó chính là kiêu hãnh Cham

Chính bởi và qua tinh thần “hổng chân” đó mà chữ Cham và văn học Cham được truyền lưu đến ngày hôm nay, qua bao bão tố của lịch sử và lòng người.

Văn hóa Champa là văn hóa đùa vui

Chịu chơi cả trong đau khổ.

(Inrasara, Lễ Tẩy trần tháng Tư, 2002)

III. Thân phận nghệ sĩ DTTS (thay lời kết luận)(7) 

Người Cham làm văn chương trong một hoàn cảnh rất đặc thù.

Thế hệ sinh vào những năm 1940-50 từ lúc cắp sách đến trường đến khi trưởng thành đều học tiếng Việt, đọc sách tiếng Việt và nói… tiếng Cham. Có thể nói ta suy tư Việt đến tám mươi phần trăm, nên sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ là điều cực khó.

Đâu là trở ngại?

Trở ngại đầu tiên của ta gặp phải xuất phát từ chính cây bút Cham, là thứ phức cảm tự ti-tự tôn dân tộc. Tự tôn về nền văn minh sáng chói của tổ tiên trong quá khứ. Được thôi. Dẫu sao nó đã thuộc về quá vãng. Với bản lĩnh của một nghệ sĩ, bạn có thể dễ dàng vượt qua. Còn tự ti về cái lép vế ở mọi lãnh vực của hiện tại?

G. Marquéz: Trong sáng tạo, khiêm tốn lắm lúc là một tật xấu. Quyết định sự lớn/ bé của nghệ thuật là ở tài năng và sự dấn thân hết mình cho nghệ thuật. Nó lệ thuộc rất ít hoặc không lệ thuộc gì cả vào các chuyện ngoài rìa: Giàu/ nghèo, Thành phố lớn/ tỉnh lẻ, Thành thị/ thôn quê, Cường quốc/ nước nhược tiểu, Đi nhiều/ đi ít, Học vị cao/ “thất học”, Dân tộc số đông/ số ít, vân vân.

Hãy đứng vững nơi mảnh đất mình đứng, thu phối tinh khí của trời đất nơi mình đang sống, vận dụng nguồn nội lực tiềm ẩn để sáng tạo. Và chỉ sáng tạo.

Bao giờ vượt qua được mặc cảm bé nhỏ, chúng ta mới có thể lớn.

Cham bắt đầu từ đâu?

Đóng lại quá khứ, bạn học đối mặt với cái xa lạ, yêu cái chưa biết và đam mê cái chưa có. Mục tiêu hướng tới là tác phẩm tương lai còn chưa định hình.

Goethe: Ba yếu tố tạo nên kiệt tác: Dân tộc đó có điều lớn lao để nói với nhân loại; Có thiên tài để nói điều đó lên bằng một cấu trúc nghệ thuật; Và người đó làm việc ở thời kì sung sức nhất.

Như vậy, người Cham có điều gì lớn lao để nói, nói như thế nào, và ai sẽ là thiên tài nói lên cái đó?

Mỗi tác phẩm nghệ thuật lớn thật sự hầu như chỉ xảy đến một lần duy nhất, như là tạo hóa đúc ra cái khuôn cho riêng nó để sau đó đập vỡ khuôn đi. THế nên tất cả thứ phẩm bắt chước đều lố bịch, ngớ ngẩn. Một Ariya Bini – Cam, Glơng Anak, Pauh Catwai hay Ariya Nau Ikak không bao giờ kéo lê dấu vết của các sáng tác có trước nó. Nó là độc sáng, độc nhất và vô nhị.

Ba tác phẩm như là ba ngọn tháp đứng biệt lập trong lịch sử văn chương Cham. Đó là ba tác phẩm xuất sắc tiêu biểu. Kinh nghiệm của người đi trước không hẳn là kim chỉ nam vẫn gợi mở cho kẻ sáng tác hôm nay vốn hiểu biết có tính nền tảng.

Viết cho ai? Viết cái gì? Và viết như thế nào? Ba câu hỏi lớn mà Sartre đã đặt ra từ hơn nửa thế kỉ qua và đã giải quyết gần như rốt ráo rồi. Cho ông và cho nhà văn thế hệ ông.

Trở lại với tiên đề của J. W. Goethe. Cham có cái gì để viết, viết bằng nghệ thuật (mới) nào, không quan trọng bằng ai viết. Kẻ sáng tạo chân tính tự khắc sẽ hiểu đâu là đề tài nền tảng đồng thời nổi cộm mang tính đánh động nhất để đầu tư, nghiền ngẫm. Rồi trong quá trình sáng tạo, nghệ thuật của bạn sẽ tự hình thành. Ai viết? Ai sẽ là thiên tài trong Cham để nói lên điều lớn lao nhất trong xã hội Cham (trong lòng đất nước Việt Nam) tới nhân loại?

Ai trong chúng ta và thế hệ sau sẽ dầm mình vào dòng sông văn hóa dân tộc?

Ai trong chúng ta bắt được nhịp đập trái tim dân tộc, mạch chảy của đời sống dân tộc?

Ai trong chúng ta vượt qua mô đất phức cảm tự ti – tự tôn dân tộc, mặc cảm tỉnh lẻ, nhà quê hay sắc tộc?

Ai trong chúng ta quyết từ bỏ rỉ rên: khổ lắm, đời sống khó khăn lắm, hoàn cảnh lắm, bị đối xử phân biệt ghê lắm…?

Ai trong chúng ta không sợ hãi thất bại, dám đọ sức với số đông xa lạ?

Dám từ chối các đặc ân, ưu ái, đãi ngộ ngoài nghệ thuật, từ chối dựa hơi vào mọi loại chức danh, chức vị. Để đừng phải ngủ quên trên đám mây hư vinh xôm xốp chưa cân xứng với thực tài. Để mình được là mình, tự do và tự tại mà sống mà sáng tạo?

Chịu khiêm cung ẩn mình thời gian dài, hoài thai trong bóng tối vô danh. Để rụng vào đúng thời điểm chín tới của tài năng, ban tặng hoa trái cho đời. Tránh tình trạng đẻ non, chết yểu?

Ai trong chúng ta dũng cảm đóng lại quá khứ, dứt áo với đồng bằng quen thuộc để nhìn về trùng khơi xa lạ?

Ai trong chúng ta dám đánh liều đời mình cho nghệ thuật, cho những đỉnh núi cao vòi vọi của văn chương?

Kẻ đó sẽ là kẻ sáng tạo, là thiên tài sáng tạo.

17 thế kỉ văn hóa – văn minh Champa với những đỉnh cao nghệ thuật: Tháp E1 Mĩ Sơn, tháp Cánh Tiên… tượng Phật Đồng Dương, tượng Vũ nữ Trà Kiệu…, các kiệt tác văn chương: Ariya Glơng Anak, Ariya Bini – Cam… Dù hôm nay cuộc sống với bao gập ghềnh, liêu xiêu, Cham vẫn có quyền hi vọng.

Inrasara

______________________

Chú thích

(1) Inrasara, Văn học Cham I – Khái luận, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 1994, tr. 269-270. 

(2) Tagalau, là đặc san của Cham, do Inrasara sáng lập và chủ biên. Đến kì 16, Inrasara giao cho thế hệ mới: Jalau Anưk sau đó là Tuệ Nguyên chủ biên.

(3) Trần Thiện Khanh, Tạp chí Văn Việt, số 13, tháng 6-2009.

(4) Xem Inrasara, Văn học Cham I, Khái luận – văn tuyển.

(5) Các ca khúc này không có tên, tôi tạm lấy từ đầu bài đặt tên cho chúng.

(6) Xem Inrasara, Văn học Cham I, Khái luận – văn tuyển

(7) Tóm từ tiểu luận: Inrasara, “Sáng tác văn chương Cham hôm nay”, Tagalau-1, 2000.