Lê Nguyễn: Mấy kỷ niệm về một đoạn đời sau tháng 4.1975 (tt)

KỲ VI.

VI) MỘT TRƯỜNG HỢP “CHUYỂN ĐỔI GIỚI TÍNH” TẠI LONG THÀNH

Câu chuyện xảy ra vào những ngày trước cái tết xa nhà đầu tiên của lũ chúng tôi, một cái tết mà ai nấy cũng biết là sẽ rất đau buồn. Bữa nọ, cụ Phạm Trọng Nhân (đã giới thiệu trong một bài trước) lục đâu ra một vở kịch thơ có nhan đề Chiến Sĩ Triều Trần và nuôi ý định tổ chức trình diễn tác phẩm này. 

Hai nhân vật chính trong tác phẩm là vị tướng Trần Bình Trọng của nhà Trần bị giặc Nguyên-Mông bắt giữ và cô công chúa Mông cổ được giao nhiệm vụ dụ hàng ông. Vai cô công chúa phải có mặt xuyên suốt vở kịch và ngâm thơ từ đầu đến cuối. Bên cạnh hai nhân vật chính này còn có nhân vật tướng Mông cổ, anh lính hầu tướng Mông cổ và cô a hoàn của công chúa Mông cổ. 

Sau khi tham khảo bạn bè, cụ Nhân nhất trí giao vai Trần Bình Trọng cho anh Dorohiem, người Chăm, em ruột anh Đỗ Hải Minh, học khóa 11 Quốc Gia Hành Chánh, chức vụ cuối cùng là Giám Đốc tại Bộ Phát triển sắc tộc. Còn vai công chúa Mông cổ thì cụ chỉ sang tôi, vì hai lẽ:

– Tôi là 1 trong 5 giọng ngâm thơ của nhà 2. Thành thực mà nói, tôi ngâm thơ … khá dở, song đọc thơ hay ngâm theo kiểu thoại trong kịch thơ thì giọng nhấn nhá của tôi lại khá mượt mà.

– Anh Nguyễn Cao Quyền, nguyên đại tá Nha Quân Pháp, Cố vấn ngoại giao tòa đại sứ Việt Nam tại Pháp, thành viên cùng tổ ngoại giao với cụ Nhân, người sẽ phụ trách việc tạo trang phục và trang điểm trong vở kịch, cho rằng gương mặt tôi phù hợp với hóa trang nữ, nói vui theo ngôn ngữ hiện đại là “chuyển đổi giới tính”.

Thế rồi, cuối cùng tôi bị ép phải “chuyển đổi giới tính”.

Ngoài đời, tôi vốn thuộc thơ rất nhanh, và nhớ lâu nữa, nên chỉ trong một thời gian ngắn, tôi nhập tâm toàn bộ phần đối thoại bằng thơ của mình trong vở kịch. Chàng Dorohiem Trần Bình Trọng lại khá vất vả với vai của anh, anh bị vấp váp thường xuyên, nên vào các buổi trưa và buổi tối, trong lúc mọi người nghỉ ngơi, anh ra khu vườn vắng ôn tập một mình.

Vai viên tướng Mông cổ phù hợp với anh Nguyễn Đình Xướng, người cao to, nước da rám nắng.

Trong một status cách đây khá lâu, tôi có bài tường thuật chi tiết về chuyện trình diễn vở kịch này, một vài trang ngoài nước cũng có đăng lại, nay chỉ xin nhắc mấy nét chính. Anh Nguyễn Cao Quyền từng là Chánh thẩm Tòa án quân sự mặt trận (xử bắn Tạ Vinh), nhưng lại là người rất có tư chất nghệ sĩ. Anh không giỏi chữ Hán, song lại viết chữ Hán rất đẹp. Anh tạo cho các bộ trang phục chúng tôi đang mặc những “biến tấu” cho phù hợp với thời xưa, trang điểm cho nhân vật bằng những sáng kiến bất ngờ. Màu hồng là một trong những màu cần thiết, cho son môi, cho má hồng và hàng chục thứ khác, lúc đầu anh lấy gạch xây, mài ra với nước, sau, khi đến gần ngày tết, anh kiếm được nhiều giấy hồng đơn (dùng để viết câu đối), dễ dàng tạo ra màu hồng hơn.

Với bộ nhung phục của nhân vật Trần Bình Trọng, anh có những tờ giấy bạc lót trong bao thuốc lá, tạo những hoa văn có nghệ thuật để không bị lẫn với quần áo của các … đạo tì.

Đêm giao thừa, đội kịch diễn trước cho anh em Nhà 2 xem, có thêm sự chứng kiến của gần 10 học viên nữ, ở nhà riêng, nhưng khi sinh hoạt thì các chị được tách ra, bổ sung vào các nhà nam. Vì chúng tôi tập kịch trong lúc các anh đi lao động, nên khi trình diễn, vở kịch cũng trở thành một bất ngờ thích thú đối với mọi người. Ai cũng tiên đoán rằng trong cuộc trình diễn văn nghệ của toàn trường 15 NV vào đêm mùng 3 tết, vở kịch Chiến Sĩ Triều Trần sẽ đoạt giải nhất.

Cuối cùng thì kết quả đêm văn nghệ chung đã diễn ra đúng như tiên đoán, cụ Phạm Trọng Nhân và những người làm nên vở kịch lịch sử nhận được sự ngợi khen nồng nhiệt của mọi người. Với riêng tui, kể từ đêm diễn đó, mình có thêm một cái tên mới được nhiều bạn bè kêu, gọi, đó là tên “công chúa Mông cổ”. Nó phổ biến đến nỗi, sự nghiệp “chuyển đổi giới tính” đeo đẳng mình trong một thời gian dài!

Đêm mùng ba tết đó, khi chương trình văn nghệ đã kết thúc, những hoan lạc nhất thời sớm tan biến, trong cái tĩnh lặng của nửa đêm về sáng, nỗi nhớ gia đình nhói lên, mình không ngủ được, lấy giấy viết một bài thơ dài tặng cụ Nhân, đại ý nhắc lại những gì đã diễn ra trong đêm kịch nhiều kỷ niệm, đặc biệt trong đoạn cuối, mình viết:

Mai này mình sẽ về muôn nẻo,

Vút cánh bằng bay khắp mọi miền,

Chắc hẳn lòng mình luôn nhớ mãi,

Ảnh hình vở kịch buổi tàn niên … 

(2.1976)

Đến lúc đó, cũng chỉ mới hơn 6 tháng qua đi, tuổi trẻ vẫn còn hi vọng vào một ngày về gần gũi, đâu biết đến ngày mai sẽ dành cho mình những điều gì. 

Mấy tháng sau, nghiệp dĩ “chuyển đổi giới tính” lại một lần nữa tìm đến với mình! Anh bạn K.T.H., thẩm phán ở Mỹ Tho, sáng tác một vở kịch không còn nhớ nhan đề, chỉ với hai nhân vật: cô hàng nước và chàng tráng sĩ qua sông. Anh N.M.Đ., dân biểu, trưởng ban văn nghệ nhà 2, đưa mình xem nội dung, xem xong, mình đề nghị thay vì kịch gồm cả thơ và lời thoại, giờ chuyển hết lời thoại sang thơ, thành một vở kịch thơ hoàn toàn. Tất nhiên là anh Đ. hoan nghênh đề nghị này.

Trưa hôm đó, trong lúc mọi người nghỉ trưa, mình ra vườn rau, làm cái việc “thi hóa’ toàn bộ các lời thoại trong vở kịch. Thần may mắn chiếu cố, khi tiếng kẻng báo thức vừa vang lên thì mình cũng vừa viết những dòng thơ cuối cùng.

Xem xong vở kịch, Đ. ngạc nhiên một cách thích thú, mình cũng ngạc nhiên về sự mau mắn của mình.

Vở kịch thơ chỉ diễn cho nội bộ nhà 2 xem, và mình cũng làm tròn vai trò cô hàng nước. Nhưng như thế chưa phải đã xong. Vin vào chuyện mình chuyển thành công lời thoại thành thơ, trưởng ban văn nghệ NMĐ thừa thắng xông lên, nghĩ ra một tiết mục táo bạo trong buổi diễn văn nghệ toàn trường 15 NV sắp tới. Đó là tiết mục toàn nhà 2 gần 300 người sẽ đồng ca ba bản nhạc đỏ: Ca ngợi Hồ chủ tịch, Như có Bác trong ngày đại thắng, và Kết đoàn. Không chỉ có thế, Đ. thuyết phục mình soạn ra ba bài thơ mở đầu cho ba bản nhạc đó.

Mình cũng “thừa thắng xông lên” như Đ., không để anh phải nài nỉ nhiều, hai ngày sau giao cho anh 3 bài thơ, mỗi bài có hai khổ.

Đêm văn nghệ toàn trường, mọi người ngạc nhiên trước hơn 200 con người dàn hàng ngang đồng ca 3 bản nhạc dưới bàn tay điều khiển điêu luyện của dân biểu NMĐ, một người có nhạc lý rất vững, và bắt giọng cũng như bắt nhịp rất chuyên nghiệp. Về việc ngâm các bài thơ trước mỗi bản nhạc, nhà trưởng nhà 2 NVNg đảm trách. Anh Ng. là dân biểu, người Huế, và là một trong những người ngâm thơ có giọng Huế hay nhất mà mình từng nghe.

Sau hai sự kiện tạm gọi là thành công, trưởng ban văn nghệ nhà 2 NMĐ cảm thấy “gắn bó” với mình hơn, song không ngờ lần kế tiếp lại đánh dấu một … tan vỡ!

Chiều hôm đó, mình đang ngủ trưa muộn, Đ. bỗng đến lay mình dậy. Ngồi lên, dụi mắt, thấy Đ. dúi cho mình hai trang giấy chi chít những dấu ký âm âm nhạc, nhờ mình viết lời cho bản nhạc anh vừa soạn. Ôi trời, mình có làm việc này bao giờ đâu, vừa bực bội vì bị phá giấc ngủ, mình từ chối một cách khá thẳng thừng. Đ. không ngờ bị phản ứng như vậy, anh quay đầu đi thẳng và giận mình luôn từ hôm ấy. Và cũng không ngờ sự giận dỗi này dẫn đến một bất lợi khá lớn đối với mình, chuyện này sẽ xin kể tiếp ở kỳ sau.

***

KỲ VII

VII) KHI SỐ PHẬN ĐÃ AN BÀI

Lúc ấy là khoảng tháng 7, tháng 8.1976. Sau hơn một năm làm việc, cơ quan quản lý trại giam Bộ Nội vụ hoàn tất việc thanh lọc ra những người “có tội với nhân dân”. Hai quyết định được ban hành cùng lúc, một để trả tự do cho khoảng 1-2 trăm người người xét không có tội, một quy định việc tập trung cải tạo ba năm cho đại đa số những người còn lại. Quyết định sau nhấn mạnh đến 2 chi tiết:

– Ai lập công chuộc tội sẽ được cho về trước thời hạn 3 năm

– Ai ngoan cố không chịu học tập, lao động, sẽ bị kéo dài thời hạn cải tạo sau 3 năm

Một thời kỳ mới bắt đầu, không còn “học viên” nữa, mà là “trại viên” (hay tù cải tạo); không còn “trường 15 NV” nữa, mà là “Trại cải tạo Long Thành”.

Do có một số người được thả về, các đội, tổ được sắp xếp lại hoàn toàn, thay vì theo thứ tự trình diện tại trường Trưng vương hay Gia Long trước đây, thì nay sắp tên theo thứ tự mẫu tự. Tên mình khởi đầu bằng chữ C, ở chung tổ với các anh Nguyễn Văn Bon, nguyên Quận trưởng ở Đô thành Sài Gòn, chức vụ cuối cùng là Tổng thư ký bộ Giáo dục; anh Nguyễn Ngọc Điện, chánh án tòa sơ thẩm Bình Dương, Lê Tài Bổn, chánh án tòa sơ thẩm Kiên Giang, bạn học của mình thời tiểu học ở trường tư thục Chấn Hưng…

Trong sự cải tổ toàn diện này, anh Hai Trung, cán bộ phụ trách nhà 2, nhận thêm trọng trách chung của cả trại. Ngày ngày, đến nhà 2, anh thường sà xuống chiếc phản của anh (dân biểu) NMĐ, cùng hút thuốc lào. Cán bộ nhà tiếp xúc với trưởng ban văn nghệ nhà là chuyện bình thường, không ai để ý, song có một vai trò quan trọng khác của anh Đ. mãi về sau mới lộ diện. Đó là vai trò “tư vấn” cho ông Hai Trung.

Sau khi chuyển qua chế độ trại viên, trại tổ chức một đội trật tự gồm những trại viên làm việc dưới sự sai phái trực tiếp của cán bộ trại. “Trật tự” là vị trí mơ ước của bất cứ anh tù nào, do không phải lao động nặng như phá rừng, cuốc đất, chỉ làm công việc nhẹ nhàng trong mát. Trời xui đất khiến, anh Hai Trung được lãnh đạo trại giao nhiệm vụ tuyển ra đội trật tự của trại, và người mà anh trông cậy vào sự tiến cử lại chính là NMĐ! 

Khi mọi việc đã xong xuôi, một vài anh em thắc mắc vì sao anh Đ. khá gắn bó với mình mà không tiến cử mình vào đội trật tự; đến lúc ấy, hầu hết mọi người không biết việc Đ. giận mình về chuyện không chịu giúp đặt lời cho bản nhạc của anh.

Về phần mình, mình chẳng hối tiếc gì về những chuyện đã qua, coi như số phận đã an bài.

Khi từ học viên trở thành trại viên là lúc đời tù cải tạo thật sự bắt đầu. Mọi hoạt động đều diễn ra trong những kế hoạch được thực hiện một cách nghiêm túc. 

Sau khi đã sắp xếp lại tổ chức tổ, đội, chúng tôi bắt đầu vỡ đất để trồng rau màu ở khu vực cạnh làng cô nhi cũ. Với những bàn tay thư sinh chỉ quen với giấy má, thử thách không hề nhỏ. Ngày đầu, mỗi người phải dùng cuốc vỡ một vạt đất ngang 1 mét, dài 100 mét. Lúc ấy đã vào tháng 7, tháng 8, nghĩa là đang ở mùa mưa, song vì đất nằm trên một ngọn đồi dốc nên không giữ nước, chỉ cuốc một mét đầu tiên thôi, cánh tay đã tê rần. Nước uống là cả một bị kịch, phần uống vào không bù đắp nổi với lượng nước từ cơ thể tiết ra. Đó là chưa kể uống vào chỉ thuần là … nước, trong khi hơi nước và mồ hôi thoát ra có chứa cả muối khoáng, sự rối loạn điện giải là mối đe dọa có thật. 

Tuy nhiên, bỗng dưng chỉ sau 1-2 tháng lao động nặng nhọc, nghiệp dĩ cũ lại tìm về với mình: lại chuyển đổi giới tính!

Vở thoại kịch lần này có tầm phủ sóng cả trại, do chính cán bộ Giáo dục trại chủ trì việc tập luyện. Nhan đề của nó là “Lửa thù Sơn Mỹ”, nhằm nhắc lại hành vi của một đại đội lính Mỹ dưới quyền Trung úy Calley tại làng Sơn Mỹ, tỉnh Quảng Ngãi. Hai nhân vật chính của vở kịch là viên trung úy Mỹ và một cô cán bộ cách mạng tên Thanh. Ngoài ra còn mấy nhân vật phụ, không đáng kể.

Với vóc dáng dềnh dàng, một lần nữa, anh Nguyễn Đình Xướng được giao vai trung úy Calley, còn cô Thanh, thì lại là … tui. Kể ra tạm thoát khỏi cảnh đánh vật với những vạt đất đồi khô khốc cũng là một may mắn. Lần này, vở kịch do chính ban lãnh đạo trại chọn nên quá trình tập kịch diễn ra rất khác, với sự theo sát mỗi ngày bởi ba nhân vật, gồm:

– Trung úy Đức, Cán bộ, Trưởng ban Giáo dục trại

– Thượng sĩ Mạnh, Cán bộ, Phó ban Giáo dục trại

– Trại viên, nhạc sĩ Vũ Thành An, Trưởng ban Văn nghệ trại.

Mỗi sáng, trong lúc thiên hạ đi cuốc đất thì chúng tôi kéo nhau lên hội trường tập kịch. Thoại kịch không dính dáng gì đến nghề nghiệp âm nhạc của Vũ Thành An, song với tư cách trưởng ban văn nghệ trại, anh không thể vắng mặt khi hai cán bộ giáo dục của trại luôn bám sát các buổi tập của nhóm kịch.

Bữa nọ, chúng tôi ngạc nhiên trước sự hiện diện của một phụ nữ lạ trong buổi tập kịch. Chị ngồi im lặng theo dõi từng động tác của tụi tôi trong suốt buổi sáng. Không lâu sau, mọi người được biết chị phụ nữ lạ ấy là vợ của Thượng sĩ Mạnh, Phó ban Giáo dục, đang phụ trách việc tập kịch cho một nhóm cán bộ nữ, chị đến để “học tập” cách tập diễn của tụi tôi.

Lần diễn vở kịch này, không có chuyện hóa trang theo kiểu vở kịch thơ lịch sử Chiến Sĩ Triều Trần, nhân vật chuyển giới thành cô cán bộ Thanh phải ăn mặc như một phụ nữ thật sự. 

Một buổi trưa nọ, anh nhà trưởng nhà 2 Đỗ Hữu Cảnh (chuyên viên dầu khí) dẫn tui đi đến dãy nhà của các chị nữ để mượn bộ đồ bà ba của chị Q. May mắn là chị cũng vui vẻ với lời “đề nghị khiếm nhã” của hai gã tù nam.

Cần nhắc đôi chút về chị Q.. Chị là người mà trong một bài viết cách đây khá lâu, mình từng nhắc đến. Chị giữ chức vụ Chánh Sở tại Bộ Xã hội, tức nằm ngoài tiêu chuẩn đi trình diện “học tập cải tạo”, nhưng trong buổi chiều ngày 15.6.1975, chị cứ đi ra đi vào trường Trưng vương nhiều lần, cố thuyết phục cán bộ tiếp nhận cho chị nhập trường. Có lẽ lúc ấy, chị cũng như hầu hết mọi người, mong sao sau 30 ngày, có được cái giấy chứng nhận đã hoàn thành nghĩa vụ học tập để tiếp tục cuộc sống mới.

Không lâu sau tháng 5.1975, các phương tiện truyền thông của bên thắng cuộc lên án nặng nề chiến dịch Babylift, với sự phối hợp giữa chính quyền VNCH mà đại diện là Bộ Xã hội và một số tổ chức nhân đạo quốc tế nhằm đưa hầu hết trẻ cô nhi ra khỏi Việt Nam, về làm con nuôi nhiều gia đình người Mỹ. Người ta gọi đó là sự kiện “bắt cóc trẻ em”, nhất là trong chiến dịch Babylift đã xảy ra một tại nạn thương tâm, khi một chiếc máy bay chở các em bị rơi lúc vừa cất cánh khỏi Sài Gòn. 

Chính trong bối cảnh chiến dịch Babylift, Sở Bảo trợ mẫu nhi thuộc Bộ Xã hội, nơi chị Q. làm Chánh Sở, là cơ quan bị lên án nặng nề nhất, do sự phối hợp giữa Sở này với các tổ chức nhân đạo quốc tế. Không rõ trong đời sống ở trại Long Thành lúc bấy giờ, chị Q. có phải trải qua các đợt thẩm vấn về chuyện chiến dịch Babylift hay không? 

Về phần mình, vai cô cán bộ tên Thanh trong buổi diễn vở kịch Lửa thù Sơn Mỹ không có gì đáng nói, đáng nói chăng, đó là dịp có được hơn một tháng tập kịch để trốn cái nắng lửa của ngọn đồi cao mà mỗi nhát cuốc bổ xuống như một nhát chém vào tuổi thanh xuân mơn mởn của mình.

Vậy mà vở kịch trên cũng chưa phải là dịp “chuyển đổi giới tính” cuối cùng của mình. Khoảng giữa năm 1978, khi đã có 2 đợt người được đưa ra Bắc, số anh em còn lại ở Long Thành chỉ còn khoảng 200 người, sống chung với anh em tù hình sự và rất nhiều thiếu niên bị gia đình gửi cho “cách mạng giáo dục” sau tháng 4.1975, mình lại một lần nữa bị gài làm phụ nữ trong một vở kịch khác. Lần này, mình đã về đội Cấp dưỡng (nhà bếp), công việc thoải mái hơn, nên sau một ngày đi tập kịch về, mình nói với anh Trần Thiên Ân (khóa 17 Quốc Gia Hành Chánh), Trưởng ban văn nghệ trại, cho trở về đội làm việc, để vai kịch đó cho người khác. Vào thời điểm ấy, nhạc sĩ Vũ Thành An, trưởng ban văn nghệ cũ của trại, đã được đưa ra Bắc trong chuyến đầu tiên.

Lê Nguyễn

16.4.2024

(Còn nữa)

—————-

Lê Nguyễn: Mấy kỷ niệm về một đoạn đời sau tháng 4.1975

Kỳ I, II, III. 

Lê Nguyễn: Mấy kỷ niệm về một đoạn đời sau tháng 4.1975 (tt)

Kỳ IV, V.